청어는 오랫동안 세계인의 주식이 되어온 생선이다. 요즘 한국에선 청어를 해풍에 말려 김과 미역, 마늘 등 채소와 함께 싸먹는 과메기가 대표적인 요리지만, 전통적으로 다양한 요리법이 전해 내려온다. 쫀득한 식감과 기름진 고소함이 겨울철 별미로 꼽혀 왔다.
Từ rất lâu, cá trích là loại cá đã trở thành thực phẩm chính đối với con người khắp nơi trên thế giới. Gần đây, món gwamegi với cá trích được hong khô bằng gió biển sau đó cuốn ăn kèm các loại rau tỏi, rong biển và lá kim là món ăn đặc trưng tại Hàn Quốc. Tuy nhiên, có nhiều cách chế biến truyền thống vẫn được lưu truyền. Độ dai, dẻo và vị thơm ngon, béo ngậy khiến món này được xếp vào hàng món ăn “tuyệt phẩm” trong mùa đông.
“맛 좋기로는 청어, 많이 먹기로는 명태” 라는 말이 전해온다. 한국인의 밥상에 오르는 대표적인 생선 세 가지 — 대구, 명태, 청어 —중 맛으로는 청어가 으뜸이라는 뜻이다.
Người Hàn Quốc có câu “Muốn ăn ngon thì ăn cá trích, ăn nhiều thì ăn cá minh thái”. Cá tuyết, cá minh thái và cá trích là ba loại cá phổ biến trên bàn ăn của người Hàn Quốc, trong đó cá trích được xem là đệ nhất mĩ vị.
말 그대로‘몸이 푸른 물고기’라는 뜻의 청어는 여러 종이 거대한 무리를 지어 바다 곳곳을 다닌다. 북유럽에서 즐겨 먹는 청어는 북대서양 청어(Clupea harengus)이고, 동북아시아와 북미에서는 태평양 청어(Clupea pallasii)를 잡는다.
Cá trích có nghĩa là “cá thân xanh” với nhiều loại khác nhau, sống thành từng đàn lớn trong môi trường nước mặn. Loại cá trích được tiêu thụ nhiều ở Bắc Âu là cá trích Đại Tây Dương (Clupea Harengus), còn ở Đông Bắc Á và Bắc Mỹ cá trích Thái Bình Dương (Clupea pallasii) được đánh bắt nhiều nhất.
흰 살 생선인 대구나 명태는 지방이 적지만 청어 살의 지방은 많게는 20퍼센트에 달할 만큼 기름지다. 냉수성 어종으로 겨울부터 봄이 산란기이고 늦가을부터 기름기가 차오른다. 그 밖에도 글리신, 알라닌처럼 단맛을 내는 유리 아미노산이 많이 들어있다.
Những loại cá thịt trắng như cá tuyết hay cá minh thái có ít mỡ, nhưng ngược lại, mỡ cá trích lại rất béo, nhiều nhất có thể chiếm đến 20%. Cá trích là loài cá sống vùng nước lạnh, từ đông đến xuân là mùa sinh sản và từ cuối thu là giai đoạn cá bắt đầu béo. Ngoài ra, cá trích còn chứa nhiều amino axit tạo vị ngọt như glycine và alanin.
1803년 김려(金鑢 1766~1821)가 쓴 한국 최초의 어보 <우해이어보>(牛海異魚譜, Rare Fish in the Jinhae Sea)에는 청어의 맛이 “달고 연하며, 구워 먹으면 아주 맛있다”라고 했다. 요리사이자 작가인 박찬일(朴贊日 1965~)이 경험한 청어 맛도 이와 비슷하다. 그는 자신의 책 <추억의 절반은 맛이다>에서 속초 바닷가의 막횟집에서 친구와 먹은 청어구이에 대해 “바람이 사나운 겨울날 굵은 소금을 뿌려 숯불 위에 구운 청어 살은 부드럽고 달았다”고 회상했다.
Trong sách về phả hệ đầu tiên của các loài cá tại Hàn Quốc mang tên “Ngưu hải di ngư phổ” (tựa đề tiếng Anh là Rare Fish in the Jinhae Sea, tạm dịch: Loài cá hiếm ở biển Jinhae) do Kim Ryeo (1766~1821) viết năm 1803 có bàn về vị cá trích như sau: “vị ngọt và mềm, nướng ăn rất ngon”. Park Chan-il (1965~) nhà văn kiêm đầu bếp cũng đã có trải nghệm tương tự về hương vị của cá trích. Trong sách “Một nửa ký ức là hương vị”, ông đã hồi tưởng lại món cá trích nướng khi ăn cùng bạn bè ở quán cá sống tại vùng biển Sokcho như sau: “trong gió lạnh khắc nghiệt của ngày đông, thịt cá trích rắc ít muối hạt, nướng trên bếp than hồng, thật mềm và ngọt”.
요리법 Cách chế biến
청어를 먹는 방법은 다양하다. 주산지인 동해안에서는 날것 그대로 회나 회무침으로 먹는데, 때로는 끓인 청어살을 체로 걸러 멥쌀을 넣고 죽을 쑤기도 하고 밀가루와 달걀을 씌워 지진 뒤 장국에 끓여 찜으로 먹기도 한다. 동남 해안을 낀 경상도 지방에서는 찌개로 끓여 먹기도 한다. 서남쪽 전라도 지방에서는 많은 양의 청어를 조리할 때 가마에 물을 붓고 끓여 수증기로 쪄서 고추장에 찍어 먹었다는 기록도 있다. 하지만 청어는 구워 먹을 때 맛을 제대로 즐길 수 있다. 굵은 소금을 뿌려 노릇하게 구우면 부드럽고 달며 고소하다. 박찬일 요리사는 “기름이 많은 생선이라 구우면 자글자글하게 기름이 배어 맛이 기가 막히다”고 설명했다.
Có nhiều cách khác nhau để thưởng thức món cá trích. Ở bờ biển Đông – khu vực khai thác chính, người dân thường ăn món cá trích sống hoặc gỏi cá trích cay; đôi khi lại ninh thịt cá trích luộc chín đã được rây qua sàng và gạo tẻ làm cháo hoặc thưởng thức món cá trích hầm bằng cách áo bên ngoài cá lớp bột mì và trứng, áp chảo và om với nước tương đậu nành. Người dân tỉnh Gyeongsang dọc theo bờ biển đông nam lại chuộng món canh cá trích nấu kiểu jigae . Trong khi đó, có ghi chép rằng khi nấu một lượng lớn cá trích, người tỉnh Jeonlla ở phía tây nam lại đổ nước vào lò nung, đun sôi, hấp cá bằng hơi và chấm ăn cùng tương ớt. Nhưng thực tế, ăn nướng mới có thể thưởng thức được trọn vẹn hương vị của cá trích. Rắc thêm ít muối hạt lên cá rồi nướng cho hơi vàng thì sẽ được món cá trích nướng mềm, ngọt và thơm ngon. Đầu bếp Park Chan-il đã giải thích rằng: “cá trích là loại cá nhiều mỡ, nếu nướng lên, mỡ thấm đều khắp, vị ngon không thể nào cưỡng lại được”.
바닷물고기에는 바닷물과 체내 염도의 균형을 유지해 주는 비단백질 질소 화합물인 트라이메틸아민옥사이드(TAMO: trimethylamine oxide)가 들어있다. 이 화합물이 미생물에 의해 트리메틸아민(TMA: trimethylamine)으로 분해되면 비린내를 풍긴다. 겨울철 기름기가 그득한 청어에는 다가불포화지방산(polyhydric fatty acid)이 많이 들어있어 쉽게 산패된다. 이로 인해 비린내가 더 강해지는데, 청어로 찌개를 끓일 때 된장을 풀거나 구울 때 된장을 바르면 비린내가 줄어든다. 된장 속 향기 물질이 비린내가 덜 느껴지도록 하고 된장의 주성분인 단백질이 비린내 성분과 결합하여 휘발을 막기 때문이다.
Trong cá biển có chứa trimethylamine oxide (TAMO), là một hợp chất Ni-tơ phi protein (non-protein nitrogen-NPN), giúp duy trì sự cân bằng giữa nồng độ muối trong cơ thể và nước biển. Hợp chất TAMO dưới tác dụng của vi sinh vật, nếu bị phân hủy thành trimethylamine (TMA-một amin dễ bay hơi) sẽ tạo mùi tanh. Mùa đông, cá trích béo chứa nhiều axit béo không bão hòa đa (polyhydric fatty acid) nên rất dễ bị ôi thiu. Từ đó, mùi tanh cũng nặng mùi hơn nên người Hàn Quốc thường khuấy thêm tương đậu nành khi nấu món canh cá trích kiểu jigae hay phết tương đậu nành lên cá khi nướng nhằm làm giảm vị tanh. Lý do là vì thành phần trong tương đậu nành giúp làm dịu vị tanh và chất đạm – thành phần chính trong tương – khi kết hợp với thành phần tạo mùi tanh sẽ ngăn chặn sự bay hơi.
그러나 1990년대 이후 청어의 다양한 조리법은 찾아보기 힘들게 되었다. 실제로 1996년 1월 27일 동아일보에는 “청어 지짐이, 청어 조림, 청어젓, 청어백숙 같은 경기도식 요리를 요즘은 거의 볼 수 없다”는 기사가 실렸다.
Tuy nhiên, sau thập niên 1990, các công thức chế biến cá trích đa dạng trở nên khó tìm. Trên thực tế, nhật báo Dong-a số ra ngày 27 tháng 1 năm 1996 đã đăng bài “Gần đây hầu như không thể thấy các món ăn của vùng Gyeonggi như canh cá trích, cá trích kho, mắm cá trích, cá trích luộc”.
다양한 청어 요리를 맛보기 어려워진 가장 큰 이유 중 하나는 청어가 있다가 없다가 한다는 것이다. 청어 수확량은 오래 전부터 들쭉날쭉했다. 찬물을 따라 떼로 몰려다니는 청어는 잡힐 때는 최다 어획류의 하나로 꼽힐 정도였다. 그러다가 잡히지 않을 때는 10여 년 동안 아무 소식이 없기도 했다. 임진왜란을 회고한 류성룡(柳成龍, 1542~1607)의 <징비록>(懲毖錄, A Record of Penitence and Warning)에는 전란이 일어나기 직전에 일어난 기이한 일들 가운데 다음과 같은 기록이 있다.
Một trong những nguyên nhân lớn nhất khiến cho việc thưởng thức các món cá trích đa dạng ngày càng khó khăn là do cá trích lúc có, lúc không. Sản lượng đánh bắt cá trích lên xuống thất thường từ nhiều năm trước. Bắt được cá trích bơi thành đàn lớn bơi theo dòng nước lạnh luôn được xếp vào một trong những vụ đánh bắt cá lớn nhất. Nhưng cũng có lần trong suốt hơn 10 năm, không có bất cứ thông tin gì về việc ngư dân đánh được đàn cá trích. Trong sách ghi chép lại những điều chứng kiến trong giai đoạn chiến tranh Nhâm Thìn Oa loạn mang tên “Trừng bí lục” (tiêu đề tiếng Anh là A Record of Penitence and Warning) của tác giả Ryu Seong-ryong (1542-1607) có nội dung sau:
“동해의 물고기가 서해에서 나고 점차 한강까지 이르렀으며, 원래 해주에서 나던 청어가 최근 10년이 넘도록 전혀 나지 않고 요동 바다(遼海)로 이동하여 나니 요동사람들이 이를 신어(新魚)라고 일컬었다.”
“Cá ở biển Đông nay lại bắt được ở cả biển phía tây và đã dần dần di chuyển đến cả sông Hàn. Tại vùng biển Haeju – vốn là nơi sinh trưởng của cá trích – lại gần như không được thấy hơn 10 năm qua. Cá di chuyển đến biển Liaodong (Liêu Đông) và sinh sản tại đây nên người dân Liaodong gọi cá trích là “tân ngư” (loại cá mới).
비슷한 시기인 1614년 이수광(李睟光 1563~1629)이 쓴 백과사전적 저서 <지봉유설>(芝峰類說, Topical Discussions of Jibong)에도 비슷한 설명이 나온다. 봄철 서남해에서 항상 많이 잡히던 청어가 무려 40여 년 동안 전혀 산출되지 않는다는 것이다. 하지만 이순신(李舜臣 1545~1598) 장군의 <난중일기>(亂中日記, War Diary)에는 청어를 잡아 군량미와 바꾸었다는 기록이 나오기도 한다.
Yi Su-gwang (1563~1629) cũng đưa ra lời giải thích tương tự trong sách bách khoa toàn thư mang tên “Jibong lưu thuyết” (Topical Discussions of Jibong) được viết năm 1614 cùng kỳ. Cá trích vốn luôn được đánh bắt nhiều ở vùng biển tây nam vào mùa xuân, đã không sinh sản suốt 40 năm. Tuy nhiên, trong “Loạn trung nhật ký” (War Diary) của tướng quân Yi Sun-sin (1545~1598) có ghi chép việc đánh bắt cá trích làm quân lương.
실학자 이익(李瀷 1681~1764)은 자신의 책 <성호사설>(星湖僿說, Miscellaneous Explanations of Seongho)에서 류성룡의 <징비록>을 인용하면서 이후 상황을 설명한다. 유성룡이 <징비록>을 쓴 당시에는 오직 황해도 해주에만 청어가 있었지만 이제는 조선 바다 전역에서 잡을 수 있다는 것이다. 그는 청어가 “해마다 가을철이 되면 함경도에서 생산”되고 “봄이 되면 차츰 전라도와 충청도로 옮겨 간다. 봄과 여름 사이에는 황해도에서 생산되는데, 차츰 서쪽으로 옮겨가면서 점점 잘아지고 흔해지기 때문에 사람마다 먹지 않는 이가 없다”고 기록했다.
Nhà thực học Yi Ik (1681~1764) đã trích dẫn “Trừng bí lục” của Ryu Seong-ryong và sau đó đã giải thích hiện tượng này trong sách “Tinh hồ tái thuyết” (Miscellaneous Explanations of Seongho). Thời điểm Ryu Seong-ryong viết “Trừng bí lục”, cá trích chỉ có ở biển Haeju, tỉnh Hwanghae nhưng bây giờ có thể đánh bắt trên khắp các vùng biển của Triều Tiên thời bấy giờ. Yi Ik ghi lại: “hàng năm đến mùa thu, cá trích sinh sản tại vùng biển của tỉnh Hamgyeong” và “khi xuân về, cá trích dần di chuyển đến khu vực biển tỉnh Jeonlla và Chungcheong. Giữa mùa xuân và mùa hè, cá trích lại sinh sản tại Hwanghae, di chuyển về phía tây, kích thước cá trích bé hơn và phổ biến nên không ai không ăn loại cá này”.
과메기 Món Gwamegi
이익은 시대별로 어획량이 크게 변하고 잡히는 지역조차 달라진 것은 청어가 변화하는 풍토와 기후를 따라다니기 때문이라고 추측했다. 250여 년 전 이야기이지만 그의 추측은 옳았다. 국립수산과학원이 1970년부터 2019년 사이 한반도 연안의 청어 어획량을 분석한 결과 동해에서는 수온이 오를수록 어획량이 증가한 반면, 서해의 어획량은 수온이 오를수록 감소했다.
Yi Ik đã dự đoán sản lượng khai thác có sự thay đổi lớn theo thời kỳ và ngay cả khu vực đánh bắt cũng thay đổi là do cá trích sống thuận theo sự biến đổi của phong thổ và khí hậu. Tuy đây là câu chuyện của 250 năm trước nhưng dự đoán của Yi Ik đã đúng. Theo kết quả phân tích sản lượng đánh bắt cá trích vùng duyên hải bán đảo Triều Tiên của Viện Khoa học Thủy sản Quốc gia Hàn Quốc giai đoạn từ năm 1970 đến năm 2019, tại vùng biển Đông nhiệt độ càng tăng thì sản lượng đánh bắt càng nhiều; ngược lại, sản lượng đánh bắt của vùng biển phía tây lại tỉ lệ nghịch với nhiệt độ của nước.
이 연구에 의하면 지난 50년 동안 청어의 어획량은 매우 불안정한 상태였다. 1970년대 초반까지는 5천 톤 내외로 잡히다가 중반 들어 1천 톤 밑으로 떨어졌다. 1980년대 말부터 다시 증가하면서 1999년에 정점으로 2만 톤을 찍고는 다시 2002년에 2천 톤 아래로 내려갔다. 2000년대 중반 다시 어획량이 급증해서 2008년에는 무려 4만 5천 톤이 잡혔다. 이듬해에도 청어 대풍은 이어졌다. 2009년 12월 20일 KBS 뉴스는 사라진 청어가 돌아왔다는 소식을 전했다. 한류성 어종인 청어가 동해뿐만 아니라 물이 따뜻한 동남해와 남해안 일대에서도 많이 잡히면서 경북 영덕에서 청어 과메기를 다시 만들게 되었다고 보도했다.
Theo nghiên cứu này, sản lượng khai thác cá trích trong 50 năm qua rất không ổn định. Đầu thập niên 1970, sản lượng khai thác đạt trên dưới 5.000 tấn, đến giữa thập niên 1970 lại giảm xuống dưới 1.000 tấn. Cuối thập niên 1980, sản lượng tăng trưởng trở lại và đạt đỉnh điểm 20.000 tấn vào năm 1999, sau đó lại rơi xuống dưới 2.000 tấn vào năm 2002. Giữa thập niên 2000, lượng khai thác tăng nhanh trở lại, đạt 45.000 tấn năm 2008. Sản lượng đánh bắt cá trích lại tiếp tục lập kỷ lục vào năm sau đó. Chương trình thời sự của đài KBS phát sóng ngày 20 tháng 12 năm 2009 đã đưa tin cá trích từng biến mất đã quay trở lại. Vốn là loài cá sống theo dòng hải lưu lạnh nhưng cá tríchkhông chỉ được đánh bắt nhiều ở biển Đông mà còn ở khắp các vùng bờ biển nước ấm phía đông nam và phía nam; đồng thời, món gwamegi cá trích được chế biến trở lại tại khu vực Yeongdeok, tỉnh Gyeongbuk cũng đã được tưa tin.
1960년대 이후 청어가 잘 잡히지 않으면서 주로 경북 해안 지방에서 꽁치로 과메기를 만들게 되었지만 원래 과메기는 청어를 말려 만들었다. 어류학자 정문기(鄭文基 1898~1995)가 1939년 5월 9일 동아일보에 쓴 칼럼에 보면 “청어 다산지인 경상북도에서는 소건한 청어를 ‘과미기’라고 칭하고, 지방특산으로 중요하게 여기는 수산물”이라는 설명이 나온다.
Sau thập niên 1960 khi cá trích trở nên khan hiếm, ở vùng ven biển tỉnh Gyeongbuk món gwamegi chủ yếu làm từ cá thu đao, trong khi món này trước đây vốn dĩ được làm từ cá trích phơi khô. Một chuyên mục do nhà Ngư học Jeong Mun-gi (1898~1995) viết trên nhật báo Dong-a số xuất bản ngày 9 tháng 5 năm 1939 đã giải thích: “tại tỉnh Gyeongsangbuk – nơi cá trích sinh sản nhiều – người ta gọi cá trích khô là “gwamigi”, là hải sản quan trọng được xem như đặc sản của vùng”.
이처럼 1930년대만 해도 경상북도 해안은 청어의 주산지였다. 요즘에는 과메기를 배추 같은 채소나 김, 미역, 다시마 같은 해초로 쌈을 싸먹는 경우가 많지만 과거에는 불에 구워먹기도 했고 쑥국을 끓여 먹기도 했다.
Tương tự, vào những năm 1930, vùng bờ biển tỉnh Gyeongsangbuk là nơi khai thác chính cá trích. Dạo gần đây, gwamegi thường được cuốn ăn kèm với các loại tảo biển như rong biển, lá kim, tảo bẹ hay rau xanh như cải thảo, nhưng trước đây cá trích thường được nướng hoặc nấu canh ngải cứu.
과메기라는 말이 어디에서 왔는가는 분명치 않다. 조선 후기 실학자 서유구 (徐有榘 1764~1845)는 자신의 책 <전어지>(佃漁志, Record of Hunting and Fishing)에서 당시 조선의 건조 청어는 등을 갈라 열지 않고 통째로 볏짚 새끼줄로 엮어서 햇볕에 건조하여 만든다고 설명한다. 서유구는 두 눈이 투명하여 새끼줄로 관통해 꿸 수 있어 이를 ‘관목’이라 부른다고 주장했다. 이 말이 변하여 지금의 ‘과메기’가 되었다는 설도 있다.
Không rõ tên gọi “gwamegi” bắt nguồn từ đâu. Vào thời hậu Joseon, nhà thực học Seo Yu-gu (1764~1845) trong cuốn sách “Điền ngư chí” (Record of Hunting and Fishing) đã giải thích món cá trích khô thời bấy giờ thường không rạch và phanh phần lưng cá mà sẽ được xâu nguyên con bằng sợi rơm và hong khô dưới ánh nắng mặt trời. Seo Yu-gu đã đưa ra giả thuyết rằng đôi mắt cá trích trong suốt và có thể xuyên qua bằng sợi rơm nên gọi là “quán mục”. Cũng có giả thuyết cho rằng từ này đã bị biến đổi và trở thành “gwamegi” như hiện nay.
청어를 통째로 말리는 ‘통마리 방식’의 과메기는 소수이긴 하지만 지금도 이어지고 있다. 주류는 배를 따고 반으로 갈라 내장과 뼈를 제거하여 해풍에 단기간 건조하는 ‘배지기 방식’이다. 통마리 방식으로 만드는 과메기는 건조 시간이 오래 걸린다. 게다가 청어는 꽁치보다 더 기름지고 몸통 너비도 커서 말리는 데 시간이 더 오래 걸린다. 꽁치 통마리가 보름이 걸린다면 청어 통마리는 한 달 이상 말려야 한다. 하지만 오랜 시간 말린 만큼 맛이 더 진하고 한겨울 통마리 청어 과메기에는 알이 들어있어서 더욱 맛이 좋다.
Gwamegi được làm khô theo cách “phơi nguyên con” còn rất ít nhưng vẫn được lưu truyền đến ngày nay. Cách phổ biến là xẻ bụng, bỏ xương và nội tạng, cắt hai bên thân cá và hong khô ngắn ngày trong gió biển, được gọi là “phơi baejiki”. Gwamegi làm theo cách phơi nguyên con mất nhiều thời gian để thành phẩm. Ngoài ra, cá trích nhiều mỡ, thân dày và to hơn cá thu đao nên phơi khô sẽ mất nhiều thời gian hơn. Nếu phơi khô cá thu đao nguyên con mất tầm nửa tháng, thì cá trích nguyên con phải mất hơn một tháng. Tuy nhiên, thời gian phơi càng lâu, vị cá lại càng đậm đà; đặc biệt gwamegi phơi nguyên con vào giữa mùa đông thường có trứng cá trong bụng nên vị ngon hơn rất nhiều.
청어는 구워 먹을 때 맛을 제대로 즐길 수 있다. 굵은 소금을 뿌려 노릇하게 구우면 부드럽고 달며 고소하다. Ăn nướng mới có thể thưởng thức được trọn vẹn hương vị của cá trích. Rắc thêm ít muối hạt lên cá rồi nướng cho hơi vàng thì sẽ được món cá trích nướng mềm, ngọt và thơm ngon.
돌아온 청어 Sự trở lại của cá trích
청어가 다시 돌아왔다. 올해도 청어가 많이 잡히고 있다. 강원도 삼척에서는 청어 소비를 늘리기 위해 어묵, 조림, 튀김과 같은 다양한 방식으로 가공하는 방법도 고려 중이다. 국립수산과학원 연구에 따르면 2000년대 이후 청어 어획량이 늘어난 것은 주로 동해의 수온이 따뜻하게 변화하여 청어의 개체수가 늘어났기 때문이다.
Cá trích đã quay trở lại. Năm nay, chúng đang được đánh bắt nhiều tại vùng biển Hàn Quốc. Thành phố Samcheok tỉnh Gangwon, đang nghiên cứu nhiều cách chế biến cá trích đa dạng như làm chả cá, kho, chiên… nhằm đẩy mạnh lượng tiêu thụ loại cá đặc biệt này. Theo nghiên cứu của Viện Khoa học Thủy sản Quốc gia Hàn Quốc, sau thập niên 2000 sản lượng đánh bắt cá trích tăng lên chủ yếu là do nhiệt độ nước ở biển Đông trở nên ấm hơn kéo theo sự gia tăng số lượng cá thể cá trích.
하지만 연구자들은 이런 연구 결과가 청어를 마구 잡아도 된다는 의미는 아니라고 덧붙인다. 북대서양에서 남획으로 인해 청어의 어획량이 급감했던 전례를 볼 때 어린 청어를 잡지 못하도록 금지하는 관리가 필요하다는 것이다. 1970년 노르웨이에서는 남획으로 청어 어획량이 0톤까지 급감했다가 이전의 수준으로 회복되는 데 무려 20년이 걸렸다는 점을 기억할 필요가 있다.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng kết quả này không đồng nghĩa với việc ủng hộ khai thác cá trích một cách bừa bãi. Sản lượng khai thác cá trích ở Bắc Đại Tây Dương đã sụt giảm nghiêm trọng do do nạn đánh bắt quá mức, thiết nghĩ Hàn Quốc cũng cần có lệnh cấm đánh bắt cá trích con. Chúng ta cần nhớ rằng nạn đánh bắt quá mức đã khiến sản lượng khai thác cá trích sụt giảm nghiêm trọng về mức “0 tấn” ở Na Uy vào năm 1970 và sau đó, phải mất đến 20 năm mới hồi phục được trở lại như mức trước đây.
청어가 정확히 어떻게 무리지어 이동하는지에 대해서도 아직 모르는 게 많다. 청어가 동해로 돌아오긴 했지만 인근의 중국 황해와 일본 북해도에서는 여전히 잘 잡히지 않는다. 우리는 아직 이런 현상이 일어나는 이유에 대해 잘 모른다. 무분별한 포획보다는 겸허한 마음으로 청어를, 그리고 자연을 바라보는 태도가 필요하다.
Vẫn còn nhiều điều chúng ta chưa rõ về việc cá trích sống thành đàn thế nào, di cư ra sao. Mặc dù cá trích đã quay trở về biển Đông Hàn Quốc nhưng các khu vực lân cận như vùng biển Hoàng Hải của Trung Quốc và Hokkaido của Nhật Bản vẫn chưa đánh bắt được nhiều cá trích. Chúng ta chưa biết rõ lí do của hiện tượng này. Do đó, thay vì đánh bắt một cách vô tội vạ, chúng ta cần có thái độ quan sát dõi theo cá trích và tự nhiên bằng lòng biết ơn.
정재훈(Jeong Jae-hoon 鄭載勳) 약사, 푸드 라이터
Jeong Jae-hoon Dược sĩ, nhà phê bình ẩm thực