침묵이 흐르는 대학가 원룸촌 – Khu phòng trọ “one-room” ở làng đại học chìm trong tĩnh lặng

0
1162

“원룸, 투룸, 자취방, 풀 옵션 방, 신축 원룸, 원룸 임대….”

대학가 골목 담벼락과 대로변 전신주, 가로수, 버스 정류장 쉘터에 붙여 놓은 전단들이 바람에 들썩거린다. 그러나 마스크를 쓴 채 지나가는 행인들은 아무런 관심이 없다. 대학가 주변에는 침묵만 가득하다.

“One-room , two-room , phòng trọ sinh hoạt tự do, phòng trọ đầy đủ nội thất, phòng one-room mới xây, cho thuê one-room…”

Những tờ rơi dán trên tường trong các ngõ hẻm, trên cột điện, hàng cây dọc các đại lộ, các trạm chờ xe buýt quanh khu làng đại học bay phấp phới trong gió. Thế nhưng, người đi đường bịt kín khẩu trang đi qua không ai mảy may quan tâm. Xung quanh làng đại học giờ đây chỉ tràn ngập sự đìu hiu, vắng lặng.

코로나19가 장기화되면서 대학가 임대업계는 걱정이 많다. 비대면 수업으로 전환되면서 대학촌에 학생들이 사라졌고, 덩달아 원룸을 찾는 수요가 줄거나 끊겼다. 중국 유학생들은 오래전에 돌아갔고, 기존에 방을 쓰던 지방 출신 학생들도 떠나기 시작했다. 대면 수업이 재개되어 학생들이 돌아오기를 기다리는 동안 월세가 전반적으로 하락했다.
Khi đại dịch COVID-19 kéo dài, dịch vụ cho thuê phòng trọ quanh các trường đại học gặp nhiều khó khăn. Trường học hoàn toàn vắng bóng sinh viên do đã chuyển sang hình thức học tập trực tuyến khiến nhu cầu tìm phòng trọ “one-room” quanh làng đại học giảm xuống đáng kể, thậm chí chững lại. Du học sinh Trung Quốc đã về nước từ lâu, sinh viên tỉnh lẻ thuê phòng giờ cũng bắt đầu rời đi. Trong khi chờ sinh viên quay lại học tập trung, giá phòng tại các khu vực này đồng loạt giảm mạnh.

Bài viết liên quan  한복의 변화 - Sự biến đổi của Hanbok

과거에는 타 지역에서 온 학생들이 학교 근처에서 대개 하숙을 했다. 방만 빌려 쓸 뿐 혼자 끼니를 만들어 먹고 살림을 해야 하는 자취 생활에 비해 하숙은 여러모로 이점이 많았다. 가족과 떨어져 객지에서 지내야 하는 학생들은 하숙집 아주머니가 만들어 주는 따뜻한 밥과 푸짐한 반찬들을 끼니때마다 먹을 수 있었고, 인심 좋은 아주머니들은 빨래와 청소까지 해 주기도 했다. 학생들은 그런 보살핌 속에서 외로움을 달래며 위안을 얻을 수 있었고, 함께 사는 다른 하숙생들과 마치 형제자매처럼 친밀하게 지내곤 했다. 하숙집 생활에는 농경 사회 대가족 체제의 공동체 정서가 남아 있었다.
Trước đây, đa số sinh viên từ các vùng khác đến học đều chọn hình thức ở trọ gần trường và đóng tiền ăn cho chủ nhà. So với việc chỉ thuê phòng trọ và phải tự nấu nướng, lo liệu mọi thứ thì hình thức này có lợi ích hơn về nhiều mặt. Nhờ các bà, các cô chủ nhà, mỗi khi đến bữa, các em vẫn có thể ăn những mâm cơm nóng hổi với đầy đủ món ăn kèm dù phải sống xa gia đình nơi đất khách. Nhiều chủ nhà tốt bụng còn giặt giũ và dọn dẹp phòng ốc giúp các em. Sống trong sự chăm sóc như vậy, các sinh viên cảm thấy bớt cô đơn, được an ủi phần nào nỗi buồn xa nhà và thường thân thiết với bạn cùng nhà trọ như anh em ruột thịt. Hình thức ở trọ, đóng tiền ăn cho chủ nhà như trên là biểu hiện của việc giữ gìn giá trị tình cảm và tinh thần tập thể bắt nguồn từ lối sống trong gia đình nhiều thế hệ, vốn là đặc trưng của văn hóa nông nghiệp xa xưa.

하지만 이러한 풍경들은 점차 추억 속으로 사라졌다. 1980년대 이후 전국적으로 대학과 대학생 수가 급격하게 증가하면서 한 지붕 아래에서 가족처럼 함께 사는 하숙으로는 수요를 감당할 수 없게 되었다. 여기에 더하여 과거의 가족적 공동생활보다 개인의 사생활 보호가 더 우선시되는 사회 분위기와 더불어 1인 가구가 늘어나면서 대학촌에 전 세대 원룸들로 구성된 신축 건물들이 들어서기 시작했다. 이로써 집주인과 학생들 사이의 끈끈한 인간적 관계는 임대인과 세입자 관계로 바뀌었다. 여기에 최근에는 코로나19로 인한 사회적 거리 두기가 대학가 원룸촌에서 젊음을 비워 버렸다.
Thế nhưng, những hình ảnh này dần dần chỉ còn trong ký ức. Sau thập niên 1980, khi số lượng các trường đại học và sinh viên gia tăng nhanh chóng trên toàn Hàn Quốc, dịch vụ thuê trọ và đóng tiền ăn cho chủ nhà, sống chung như một gia đình đã không thể đáp ứng hết nhu cầu lớn. Thêm vào đó, cuộc sống riêng tư của cá nhân được ưu tiên hơn lối sống tập thể kiểu gia đình trong xã hội, số lượng hộ gia đình một người gia tăng nhanh chóng dẫn đến hiện tượng các tòa nhà xây mới với tất cả phòng đều là “one-room” dần mọc lên xung quanh các trường đại học. Và như vậy, mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa chủ nhà trọ và sinh viên trước đây đã chuyển sang mối quan hệ giữa người cho thuê và người đi thuê. Không những thế, thời gian gần đây, việc giãn cách xã hội do COVID-19 đã làm mất đi “sức trẻ” ở các khu “one-room” quanh trường đại học.

Bài viết liên quan  베트남의 전당포(cầm đồ) - Hiệu cầm đồ (껌도) ở Việt Nam

남향의 작은 베란다와 최소한의 규모만 갖춘 주방, 좁지만 그런대로 깔끔한 욕실, 붙박이장과 책상, 그리고 작은 침대 하나…. 젊은 날의 꿈과 고뇌와 열정으로 충만했던 원룸이 텅 빈 채 사나운 여름빛만 가득하다. 초가을 2학기가 시작되면 이 방에 희망을 품은 새 주인이 돌아올까?
Một ban công nhỏ nhìn về hướng nam, một góc bếp tối giản, một phòng tắm hơi chật nhưng gọn gàng sạch sẽ, tủ quần áo âm tường, bàn học và một chiếc giường nhỏ… căn phòng “one-room” từng chứa đựng biết bao ước mơ, nhiệt huyết và cả nỗi niềm ưu tư của tuổi trẻ giờ trở nên trống vắng, chỉ còn hắt những vệt nắng hè chói chang. Mùa thu tới, khi học kỳ mới bắt đầu, liệu chủ nhân mới với hành trang hy vọng trên vai có đến thuê phòng hay không?

김화영(Kim Hwa-young 金華榮) 문학평론가, 대한민국예술원 회원
Dịch. Phùng Thị Thanh Xuân

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here