평화를 창안해낼 능력은 어디에서 오는가? 이제는 숲길이 된 60여 년 전의 전쟁터를 걸으며 나는 줄곧 생각했다. Để kiến tạo hoà bình cần bắt đầu từ đâu? Tôi miên man suy nghĩ khi chân bước qua bãi chiến trường của 60 năm trước, nơi giờ đây đã trở thành mộ tcon đường rừng
1986년 5월, 유네스코는 스페인의 세비야에서 비폭력 교육에 관한 국제 학술회의를 열면서 <폭력에 관한 세비야 선언>을 발표했다. 전쟁과 같은 조직적 폭력이 인간의 생물학적 폭력성에서 기인하는 것이라는 관념에 반박하기 위해 작성된 5개 명제의 세비야 선언은 이렇게 끝을 맺는다.
“전쟁이 인간의 마음속에서 시작되듯이, 평화도 우리의 마음속에서 시작된다. 전쟁을 창안한 종이라면 평화를 창안해낼 능력도 있다. 그 책임은 우리 각자에게 있다.”
그렇다면 DMZ는 인류가 마음속으로 만들어낸, 전쟁에서 평화로 이행하는 중간 단계로 볼 만한 꽤 그럴 듯한 발명품인가? 제법 성공한 몇몇 경우에 대한 믿을 만한 정보를 가진 이들은 의미심장한 미소를 띠며 고개를 끄덕일 것이다. 아무 생각 없이 사는 사람 취급을 받지 않으려면 뭔가 말해야 한다.
Tháng 5 năm 1986, UNESCO ra “Tuyên bố Seville về Bạo lực” khi tổ chức Hội nghị khoa học quốc tế ở Seville (Tây Ban Nha) lấy chủ đề giáo dục phi bạo lực. Với năm điều được soạn thảo nhằm phản bác quan điểm cho rằng bạo lực có tổ chức như chiến tranh xuất phát từ bạo lực mang tính sinh lý của con người, tuyên bố Seville kết thúc như sau:
“Cũng như chiến tranh xuất phát từ tâm của con người, hòa bình cũng được bắt đầu từ trong tâm mỗi chúng ta. Một giống loài đã tạo ra được chiến tranh ắt sẽ có khả năng kiến tạo hòa bình. Trách nhiệm ấy thuộc về mỗi chúng ta.”
Như vậy, có nên xem khu vực phi quân sự (DMZ) là sản phẩm được nhân loại tạo ra từ trong tâm, là một giai đoạn trung gian chuyển tiếp từ chiến tranh đến hoà bình? Ai nắm thông tin đáng tin cậy về một vài trường hợp thành công của DMZ hẳn sẽ nở nụ cười thâm thúy và gật đầu đồng tình. Nhưng, có lẽ chúng ta cần bàn thêm đôi điều để không bị xem là sống hời hợt.
DMZ와 간전 – DMZ và “gian điền”
상(商) 나라 때의 일이다. 제후국이던 우(虞) 나라와 예(芮) 나라가 국경 분쟁으로 서로의 주장을 굽히지 않고 다퉜다. 그들은 옳고 그름을 가리자며 또 다른 제후국인 주 나라 서백(西伯)을 찾아갔다. 그러나 두 나라의 왕은 주 나라에 들어서자 곧 자신들의 잘못을 깨닫고는 서백을 만나보지도 않고 각각 자기 나라로 돌아갔다. 그들이 본 것은 밭을 가는 자들이 서로의 경계가 되는 두렁을 양보해 공유하는 풍습이었다.
Chuyện xảy ra thời nhà Thương. Hai nước chư hầu Ngu và Nhuế tranh cãi không ai chịu ai trong cuộc tranh chấp biên giới lãnh thổ. Không thể phân định đúng sai, họ bèn tìm đến một nước chư hầu khác là Tây Bách của nhà Chu. Có điều, vua của hai nước khi vừa đến nước Chu thì nhận ra ngay sai lầm của mình nên đường ai nấy về trở lại đất nước của mình mà không đi gặp Tây Bách nữa. Nguyên nhân là họ đã được chứng kiến tục nhường nhịn và cùng sở hữu bờ đất phân chia ranh giới các thửa ruộng giữa những người nông dân.
사마천의 <사기(史記)>에 나오는 이 일화의 배경은 물론 주 문왕(文王)이 된 서백을 칭송하려는 데에 있지만, 동양의 농업인들의 지혜나 풍속의 일단을 엿볼 수 있다는 점에서 흥미롭다. 이른바 간전(間田), 또는 한전(閑田)을 말한 것이다. <상서대전(尙書大傳)>에는 “분쟁이 되는 곳을 양보하여 간전(間田)으로 한다.”고 했으며, <설원(說苑)>에는 한전(閑田)이란 “두 나라 어디에도 속하지 않는 완충지”라고 정의하고 있다. 또 <예기>에는 이를 ‘한전(閒田)’이라고 불렀다. 누구의 것도 아닌 창밖으로 보는 달이나 나뭇가지 같은 땅이라는 뜻이다.
Bối cảnh của câu chuyện xuất hiện trong Sử Kí của Tư Mã Thiên này có thể là việc Chu vương muốn ca tụng Tây Bách, nhưng thú vị ở chỗ câu chuyện đã lồng ghép vào đó một nét văn hóa hay trí khôn của người làm nông ở phương Đông. Đó chính là “gian điền” hay “nhàn điền” (tức bờ ruộng). Trong Thượng Thư Đại Truyện có viết: “Hãy nhường nhau vùng tranh chấp mà làm thành gian điền”. Trong khi đó, Thuyết Uyển lại định nghĩa gian điền là “vùng đất ở giữa không thuộc về quốc gia nào”. Ngoài ra trong Lễ Kí, vùng đất này còn được gọi là “nhàn điền”, chỉ vùng đất có đặc điểm như vầng trăng hay nhánh cây bên ngoài cửa sổ vốn không thuộc về bất cứ một ai.
이렇게 말하고 보니 DMZ와 간전 사이에 분명한 차이가 보인다. DMZ가 협상의 테이블에서 인간의 삶의 방식에서 가장 단순하고, 가장 기능적이고, 가장 이해국 중심적인 수준의 판단만을 남긴 결과라면, 간전은 현실적 이해관계의 바탕 위에서 상대에 대한 양보와 절제와 관용이라는 마음이 화학적으로 결합되어 있는 개념인 셈이다.
Nói vậy để thấy có sự khác biệt rõ ràng giữa DMZ và gian điền. DMZ là kết quả được tạo ra trên bàn đàm phán sau những cân nhắc về cuộc sống con người ở cấp độ giản đơn nhất, thực dụng nhất và vị lợi nhất.Trong khi đó gian điền có thể được xem là khái niệm chỉ sự tương tác kết hợp giữa tấm lòng khoan dung, tiết chế và nhường nhịn trước đối phương trên cơ sở quan hệ hiểu biết thực tế.
그럼에도 불구하고 DMZ는 비교적 성공한 발명품으로 보인다. 잠정적이었지만 여러 분쟁 지역에서 전쟁을 중단하는 효과가 있었으며, 특히 남극과 같은 과학적 탐험이나 연구를 위한 목적에는 빛을 발했다. 그러나 둘 이상의 세력이 군사력을 바탕으로 자국의 가치와 이익을 보호한다는 명분으로 물러설 수 없는 경쟁을 하는 경우 DMZ의 효용은 매우 제한적으로 보인다. 한국의 DMZ는 처음의 의도와는 달리 약 150만 명에 달하는 군인들과 온갖 무기들이 집결한 중무장지대가 되어 버렸으며, 살상을 두려워하지 않는 불분명한 대치 국면이 아주 광범위한 지역에서 60년이 넘게 지속되고 있기 때문이다.
Bất chấp điều đó, DMZ vẫn được xem là một phát minh tương đối thành công. Tuy chỉ là tạm thời nhưng nó cũng có hiệu quả đình chiến ở những khu vực đang giao tranh. Đặc biệt nó càng tỏa sáng khi dùng với mục đích nghiên cứu hay thám hiểm khoa học, như trường hợp vùng Nam Cực. Có điều, trong trường hợp hai hay nhiều thế lực không thể tránh được cạnh tranh quân sự núp dưới danh nghĩa bảo vệ giá trị và lợi ích của nước mình, hiệu quả của DMZ trở nên cực kì hạn chế. Đơn cử như trường hợp DMZ của Hàn Quốc. Khác với ý đồ ban đầu, vùng phi quân sự này giờ đây đã trở thành khu vực vũ trang nặng, nơi tập kết của 1,5 triệu quân với đủ loại vũ khí; cục diện đối đầu không thương tiếc đã và đang được duy trì trên 60 năm qua tại một vùng rộng lớn.
만일 거대한 국제기구나 국가기관의 싱크탱크, 뛰어난 지도자의 결단이 한반도에서 평화를 이끌어낸다고 믿는다면 이 글은 여기서 멈춰야 옳다. 내가 말하려는 것은 사소한 것이다. 오솔길을 가로 막는 가지를 쳐내거나 학교로 가는 길을 넓히고, 마당에 이름 모를 꽃을 옮겨 심는 것 같은 그 사소함에 대해 말할 것이다. 다른 점이라면 그들이 사는 곳이 DMZ 인근 민통선 안이라는 것이고, 같은 점은 그들 역시 더 나은 삶을 위해 부단히 견디고 양보하며 살아가고 있다는 것이다. 나는 그들에게서 평화를 창안해낼 능력을 본다. 모름지기 간전이란 그렇게 만들어진 것이리라.
Nếu bạn tin rằng sự quyết đoán của các tổ chức quốc tế lớn, ban cố vấn của các cơ quan nhà nước hay các nhà lãnh đạo tài ba sẽ mang lại hòa bình trên bán đảo Hàn thì bài viết này nên được dừng tại đây mới phải. Điều tôi định nói ra vô cùng nhỏ bé. Đó là chuyện những người dọn dẹp những cành cây ngáng qua con đường mòn, mở rộng đường đến trường, hay đem trồng những loài hoa không tên sau vườn. Tuy khác với người bình thường là sống trong khu vực hạn chế dân cư gần DMZ, họ vẫn là những người biết nhường nhịn và không ngừng cố gắng vươn lên vì một cuộc sống tốt hơn. Tôi thấy ở họ khả năng kiến tạo hòa bình. Nói gì thì nói, gian điền được tạo ra từ những điều như thế.
펀치볼 둘레길에서 – Đường vành đai Punchbowl
강원도 양구에 있는 ‘펀치볼(Punch Bowl)’은 한국전쟁을 이야기하자면 빼놓을 수 없는 가장 치열했던 격전지다. 이 지역을 적에게 빼앗기면 춘천까지 위험하고 춘천을 빼앗기면 곧장 서울이 적의 공격에 노출될 수 있어 필사적으로 지켜야 하는 전략적 요충지였기 때문이다. 양구군 안에서만 큰 전투가 아홉 차례 있었는데 그 중 네 번의 전투가 이 펀치볼에서 벌어졌다. 한국 해병이 ‘무적해병’이란 별칭을 달게 된 ‘도솔산 전투’와 40일 동안 주인이 6번이나 바뀌는 치열한 고지전을 벌인 ‘가칠봉 전투’의 무대가 바로 펀치볼이다.
Punchbowl ở Yanggu, tỉnh Gangwon là một vùng chiến sự ác liệt nhất không thể bỏ qua khi nhắc đến chiến tranh liên Triều. Vùng này là đầu mối chiến lược đặc biệt quan trọng, bởi nếu rơi vào tay địch thì Chuncheon sẽ gặp nguy hiểm, mà Chuncheon mất thì Seoul sẽ dễ tổn thương trước những đòn tấn công của địch. Trong chín trận đánh lớn riêng ở địa bàn huyện Yanggu thì đã có bốn trận diễn ra tại vùng lòng chảo này. Nơi đây chính là chiến trường cho “trận đánh núi Dosol”, trận mang lại biệt danh “Hải quân vô địch” cho quân đội hải quân Hàn Quốc; và “trận đánh đỉnh Gachil” ác liệt với kỉ lục đổi chủ đến sáu lần trong 40 ngày.
펀치볼이란 지명은 한국전쟁에 참전했던 한 외국인 종군기자가 해발 1000m가 넘는 산들에 둘러싸인 지형이 화채 그릇처럼 생겼다고 해서 붙인 이름이지만, 한국인들도 거부감 없이 그 이름을 그대로 쓴다. 암석의 풍화와 침식에 의해 만들어진 이 해안분지(亥安盆地)는 전쟁 당시까지만 해도 작은 산골 마을에 불과했다. 휴전이 된 뒤인 1956년 민통선으로 분류된 이 폐허가 된 마을에 정부가 정책적으로 민간인들을 집단으로 이주시켜 지금과 같은 1700여 명이 모여 사는 면 단위 마을이 된 것이다. 1인당 국민소득이 100불도 안되던 시절에 이주민들은 먹고 살기 위해 ‘목숨 걸고’ 땅을 일궈 지뢰가 가득한 해발 600미터(가장 낮은 곳이 해발 400미터다) 산비탈까지 농토로 만들었다. 15년 전 산림청 주도로 와우산에 조림을 하려고 땅을 고르면서 주운 탄피만 두 가마니였다니 이곳에서 어떤 일이 벌어졌었는지를 짐작하게 한다. 지금도 이들의 손을 거치지 않은 땅은 지뢰밭이거나 군사보호지역이다. 올해도 제4땅굴이 있는 현리 쪽에서 두 건의 지뢰 사고가 있었다.
Cái tên Punchbowl do một phóng viên chiến trường người nước ngoài tham chiến trong chiến tranh hai miền Nam – Bắc đặt ra khi anh thấy địa hình lòng chảo được bao bọc bởi những ngọn núi cao trên 1.000 mét so với mực nước biển nơi đây trông giống như một chiếc bát pha rượu pân. Người Hàn cũng cứ theo đó dùng cái tên này một cách tự nhiên. Lòng chảo xã Haean được tạo bởi quá trình xói mòn và phong hoá đá này cho đến thời chiến tranh Nam – Bắc cũng chỉ là một ngôi làng nhỏ trên núi. Đến năm 1956 sau khi kí hiệp định đình chiến, chính phủ thực hiện chính sách di dân đến ngôi làng bị bỏ hoang do được xếp loại khu vực hạn chế dân cư này. Đến nay ngôi làng đã trở thành một đơn vị hành chính cấp xã, nơi tập trung khoảng 1.700 người dân đang sinh sống. Thời thu nhập bình quân đầu người chưa đến 100 USD, để có cái ăn, những người dân di tản đến đây phải bất chấp tính mạng phát quang ruộng đất vốn còn đầy mìn để làm nương rẫy, kéo dài đến tận sườn núi cao 600 mét (nơi thấp nhất cao 400 mét so với mực nước biển). Cách đây 15 năm, trong quá trình Cục Bảo hộ Rừng chọn đất trồng rừng trên núi Wawu, người ta đã nhặt được hai bao tải vỏ đạn. Câu chuyện này giúp ta hình dung chuyện gì đã xảy ra ở đây thời bắt đầu khai hoang. Hiện nay, mảnh đất vẫn không nương tay trước con người này vẫn là bãi mìn hoặc là khu vực quân sự. Trong năm nay cũng có hai vụ tai nạn do mìn xảy ra ở thôn Hyeon nơi có địa đạo số 4.
2011년 가을, 이 최북단 마을에 ‘DMZ 펀치볼 둘레길’이라는 트레킹 코스가 생겼다. 민통선 지역 안에 있는 탓에 탐방로를 만들 때 지뢰 탐지는 필수였다. 그래야 관할 군부대에서 통행 허가를 내주기 때문이다. 여기에 안전을 위해 반드시 ‘숲길 체험 지도사’를 동반해야만 한다. 김은숙 씨(56세)는 5년째 이곳에서 숲길 체험 지도사로 일하고 있다. 탐방객들에게 가이드 역할도 하지만, 숲길 관리나 생태 조사도 그녀의 몫이다. 그녀는 이 직업을 이곳에서 자란 덕에 받은 손꼽을 만한 혜택 중의 하나로 여긴다. 남편과 함께 농사를 지어 자식 둘을 키우긴 했지만 갈수록 일은 고되고, 농산물 가격은 자꾸 떨어져 뭔가 다른 일을 찾아야겠다고 생각하던 차에 이 일을 택하게 된 것이다.
Mùa thu năm 2011, cung đường đi bộ qua núi mang tên “Đường vành đai Punchbowl DMZ” xuất hiện trong ngôi làng ở địa đầu cực Bắc này. Việc thăm dò mìn là điều kiện bắt buộc khi làm con đường thám hiểm, bởi nó nằm trong khu vực hạn chế dân cư. Mà phải như vậy thì mới xin được giấy phép thông hành từ Ban Quân sự. Ngoài ra, khách tham gia tour này vì sự an toàn buộc phải đi cùng “người hướng dẫn trải nghiệm đường rừng”. Kim Eun-suk (56 tuổi) đã làm công việc này đến nay là năm thứ 5. Bà vừa đóng vai trò là người hướng dẫn khách tham quan, vừa gánh vác cả phần quản lý đường rừng và điều tra sinh thái. Bà xem công việc này là một trong những ưu đãi hiếm hoi mà mình nhận được từ việc lớn lên ở đây. Trước đây, bà cùng chồng làm nông để nuôi hai đứa con nhưng công việc ngày càng vất vả, nông sản thì cứ rớt giá liên tục. Giữa lúc đang trăn trở tìm công việc mới thì cơ duyên này đến với bà.
그녀에게 트레킹 코스는 보릿고개를 넘기기 위해 어머니와 피나무 껍질이며 산나물을 뜯으러 다니던 그 길과 겹친다. 그때 어머니에게 주워들은 나무 이름이며 풀 이름이 이렇게 쓸모가 있을 줄은 미처 몰랐다. 물론 그때와 달리 쥐치, 껌쑥, 솜나물 같이 사라진 식물도 있는가 하면, 또 새로 들어온 외래종 식구도 많다.
Với bà, cung đường trekking trùng khít với con đường mà trước đây bà vẫn cùng mẹ đi hái rau rừng và bẻ vỏ cây đoạn làm cái ăn trong khi chờ vụ thu hoạch tới. Bà cũng không ngờ rằng có lúc tên của các loại cây cỏ được học từ mẹ lại trở nên hữu ích. Tất nhiên, khác với hồi ấy, nhiều loại thực vật đã biến mất 1 như cây tử thảo (Arnebia euchroma), raukhúc, rau lê-nê, nhưng đồng thời cũng có những loại thực vật ngoại lai mới xuất hiện.
DMZ 펀치볼 둘레길은 총 73㎞의 트레킹 길로 ‘평화의 숲길’ ‘오유밭길’ ‘만대벌판길’ ‘먼멧재길’ 등 4개 구간으로 구분되어 있다. 그녀는 백두대간의 시작인 먼멧재길도 좋아하지만 그녀에게 각별히 애착이 가는 길은 오유밭길이다. 지뢰가 많고 산세가 험한 가칠봉이나 대우산 쪽과 달리 비교적 평탄하기도 하고, 고원의 황톳길과 계곡과 저수지가 차례로 펼쳐져 탐방길이 다채롭기 때문이다. 그리고 무엇보다 이곳은 그녀가 초등학교 때부터 “부뚜막에 올라가 밥을 지으며” 살았던 동네이다. 오유밭길 초입에는 부모님의 산소도 있다. 농사를 지으면서도 외출할 때면 갓 쓰고 두루마리 입고 다니던 아버지, 술 좋아하시는 아버지가 부끄러워 등을 돌렸던 기억은 오래도록 미안함으로 남아 있다.
lô-mét, được phân làm bốn cung đường nhỏ gọi tên là “đường mòn Hoà Bình”, “đường cánh đồng Oyu”, “đường bình nguyên Mandae” và “đường đồi Meonmet”. Bà Kim rất thích cung đường đồi Meonmet bắt đầu từ rặng núi Baekdu, nhưng cung đường đặc biệt gắn bó với bà lại là đoạn đường băng qua cánh đồng Oyu. Bởi khác với phía núi Daewu hay đỉnh Gachil nơi có địa thế hiểm trở và nhiều mìn, cung đường này tương đối bằng phẳng với màu sắc đa dạng, từ con đường đất đỏ vùng cao nguyên, qua thung lũng rồi lại đến hồ nước. Hơn hết thảy, đây là nơi bà sống từ thời học tiểu học, cái thuở mà nấu cơm còn phải đun bếp củi.
그녀는 탐방객들을 안내하다가도 문득 어머니와 함께 산나물을 뜯으러 다니는 것이 아닌가 하는 착각에 빠지곤 한다. 특히 숲 사이로 언뜻언뜻 보이는 파란 하늘의 흰 구름들을 바라보고 있을 때면 더 그렇다. 언젠가 해병대로 펀치볼 전투에 참전했던 노병들의 길라잡이를 할 때도 그녀는 그들의 눈빛에서 같은 느낌을 받았다. 모르긴 해도 그들도 이 숲길 어딘가에서 총을 거머쥔 채 앉은 자리에서 어린 아이처럼 여념 없이 꾸겨져 잠든 어린 병정의 모습을 보았을 것이다.
Đầu cung đường này là nơi đặt mộ của cha mẹ bà. Bà nhớ cha bà tuy làm nông nhưng hễ ra đường là luôn chỉn chu quần áo mũ mão. Ông lại còn thích uống rượu. Cảm giác xấu hổ vì cha ngày ấy trở thành một kí ức giày vò bà.
Nhiều lúc hướng dẫn khách tham quan, bà bất chợt ngỡ như mình đang đi hái rau rừng cùng mẹ. Đặc biệt là những khi bà nhìn những lọn mây trắng trên trời xanh thấp thoáng qua những tán cây rừng. Có lần khi đang chỉ đường cho những cựu chiến binh hải quân từng tham chiến trong trận Punchbowl, bà chợt thấy đồng cảm qua ánh mắt của họ. Không chừng ở đâu đó trên cung đường này, họ cũng đã thấy những người lính trẻ năm xưa gác súng chìm vào giấc ngủ sâu như những đứa bé con hồn nhiên vô tư lự.
언젠가 해병대로 펀치볼 전투에 참전했던 노병들의 길라잡이를 할 때도 그녀는 그들의 눈빛에서 같은 느낌을 받았다. 모르긴 해도 그들도 이 숲길 어딘가에서 총을 거머쥔 채 앉은 자리에서 어린 아이처럼 여념 없이 꾸겨져 잠든 어린 병정의 모습을 보았을 것이다. Có lần khi đang chỉ đường cho những cựu chiến binh hải quân từng tham chiến trong trận Punchbowl, bà chợt thấy đồng cảm qua ánh mắt của họ. Không chừng ở đâu đó trên cung đường này, họ cũng đã thấy những người lính trẻ năm xưa gác súng chìm vào giấc ngủ sâu như những đứa bé con hồn nhiên vô tư lự.
철원 평야에서 – Bình nguyên Cheorwon
시베리아나 중국 동북부 지방에서 서식하는 겨울철새들에겐 한반도는 최적의 월동지다. 그러나 급격한 도시화와 간척 사업은 철새들의 발길을 돌리게 만들었다. 그나마 철새들에게 위안이 되는 곳이 철원평야다. 추수가 채 끝나기 전부터 기웃거리던 기러기나 두루미의 선발대는 10월이 되면 철원평야의 하늘을 뒤덮을 만큼의 기러기와 두루미를 몰고 온다. 여기에 비교적 늦게 날아오는 청둥오리나 가창오리까지 합류하면 철원평야에만 수백만 마리에 이르는 철새들로 장관을 이룬다.
Đối với các loài chim di cư ở vùng Đông Bắc Trung Quốc hay Siberia thì bán đảo Hàn vốn là nơi trú đông lý tưởng. Có điều, quá trình khai khẩn đất đai và đô thị hoá với tốc độ chóng mặt đã ngăn chúng tìm đến đây. Một trong số ít những nơi đủ an ủi cho các loài chim di cư là bình nguyên Cheorwon. Bước vào tháng 10, khi việc thu hoạch còn chưa kịp kết thúc thì đội quân tiên phong đang nhấp nhỏm của ngỗng và sếu đã ồ ạt kéo về giăng kín bầu trời. Cùng với loài vịt trời và mòng két tề tựu về không lâu sau đó, chúng làm nên một cảnh tượng kì vĩ với hàng triệu con chim, con số này chỉ tính riêng ở vùng bình nguyên Cheorwon.
이들이 이곳을 첫 기착지로 여기는 것은 철원에 있는 화산 오리산이 만든 용암 대지 위로 섭씨 15도의 따듯한 실개천이 흐르고 있기 때문이다. 이 물길과 비옥한 현무암 풍화토는 이곳을 강원도 최고의 곡창지대로 만들었다. 비록 이곳이 민통선 지역임에도 불구하고 사람들이 이곳을 찾아 드는 까닭도 풍요로운 자연 환경에 있듯이, 새들도 추수가 끝난 논바닥에 지천으로 널린 낙곡과 풀, 갖가지 애벌레, 얼음장 밑의 물고기를 찾아 이곳으로 날아오는 것이다.
Lý do chúng xem đây là điểm đến đầu tiên là vì nơi đây có một con suối nước ấm với nhiệt độ khoảng 15 độ C, nằm trên vùng cao nguyên dung nham được tạo bởi ngọn núi lửa Ori ở Cheorwon. Đất phong hoá bazan màu mỡ cùng dòng suối đã biến nơi đây thành một vựa hoa màu số một của tỉnh Gangwon. Cũng như người dân vẫn tìm đến sinh sống bởi môi trường tự nhiên trù phú bất chấp đây là khu vực hạn chế dân cư, các loài chim cũng bay về chốn này để tìm ngũ cốc rơi vãi, cỏ, các loại sâu, các loài cá sống dưới băng vốn đầy rẫy trên cánh đồng mỗi khi vụ thu kết thúc.
그러나 이곳 역시 한국전쟁 당시 최대의 격전지였다. 철원과 함께 평강군, 김화군을 잇는 삼각 축선은 ‘철의 삼각지대(Iron Triangle)’라 불리며 중부전선을 장악하기 위해서 꼭 지켜야 할 중요한 전략적 요충지였다. 이곳에서 중공군과 맞붙은 유엔군은 정전 협상 직전까지 엄청난 포격전을 펼쳐 수만 명의 사상자를 내었다.
Tuy nhiên nơi đây cũng là một vùng chiến sự ác liệt nhất thời chiến tranh hai miền Nam – Bắc. Trục tam giác nối Cheorwon với huyện Pyonggang, huyện Kimhwa được gọi là “Tam giác sắt” (Iron Triangle), là đầu mối chiến lược quan trọng buộc phải giữ nếu muốn kiểm soát chiến tuyến miền Trung. Nơi đây, cho đến trước ngày kí kết Hiệp định đình chiến, lính Liên Hợp Quốc khi đối đầu với quân đội Trung Quốc đã triển khai bao nhiêu trận pháo kích lớn khiến hàng vạn người thương vong.
1992년 12월, 철원 DMZ의 한 병사의 눈에 눈 덮인 벌판에서 이상하게 움직이지 않고 서 있는 두루미 한 마리가 관측되었다. 일주일쯤 되던 날 두루미는 그 자리에 쓰러져 있었다. 병사가 달려갔을 때 이 암컷 두루미 옆에는 또 한 마리의 두루미 사체가 있었다. 이 두루미는 수컷이었고, 죽은 지 꽤 시간이 흐른 것으로 보였다. 병사는 일단 기진한 암컷을 극진이 보살폈다. 이 병사와 두루미 이야기는 수컷의 주검을 슬퍼하던 암컷 두루미의 이야기로 마을에 퍼졌다.
Tháng 12 năm 1992, một người lính tại DMZ Cheorwon phát hiện một con sếu đứng yên bất động một cách kì lạ trên cánh đồng tuyết trắng phủ đầy. Anh quan sát khoảng một tuần thì chợt thấy con sếu ngã quỵ. Vội chạy đến gần, anh nhận ra bên cạnh con sếu cái này là xác một con sếu khác. Đó là một con sếu đực, và có vẻ đã chết một thời gian khá lâu. Người lính bèn tận tình chăm sóc con sếu đang thoi thóp. Câu chuyện về người lính và con sếu cái đau buồn bên xác bạn tình này được lan truyền khắp làng.
극진한 보살핌으로 한 달 만에 기력을 회복한 이 미망인 두루미를 마을사람들은 자작나무 숲에 둘러싸인 어느 북쪽 호숫가로 날려 보냈다. 그녀의 발목에는 가락지가 달려 있었다. 그녀가 다시 철원평야를 찾아왔을 때 그녀를 알아보기 위한 표식이었다. 그 뒤 이 민통선 지역에서 생산한 철원 오대쌀은 비옥한 땅과 청정 지역이라는 이미지에 힘입어 유명한 브랜드가 되었다. 그 두루미를 다시 보았다는 사람은 없지만 철원 사람들은 이를 두루미의 은혜 덕분이라 여기며, 해마다 잊지 않고 철새들에게 먹이를 주고 있다.
“Bà sếu quả phụ” sau một tháng được chăm sóc chu đáo thì hồi phục. Người dân trong làng thả cho sếu bay đến bờ hồ phía bắc được bao bọc bởi rừng cây bu lô. Họ đeo một chiếc vòng trên cẳng chân con sếu. Đây là dấu hiệu để nhận biết được nếu nó quay trở lại bình nguyên Cheorwon. Sau đó, gạo Odae của Cheorwon được trồng ở vùng hạn chế dân cư này trở thành một thương hiệu nổi tiếng, cùng với hình ảnh về một ngôi làng có khí hậu trong lành và đất đai màu mỡ.
Chưa ai thấy con sếu quay lại, nhưng người Cheorwon vẫn luôn tin rằng tất cả là nhờ công của con sếu nọ, và mỗi năm họ vẫn không quên rắc thức ăn cho lũ chim di cư.
경기도 파주시 장단반도와 적성면 두지리 임진강변, 그리고 철원군 동송읍 토교저수지 등 민통선 지역 일대는 손꼽히는 독수리의 월동지다. 2,30년 전부터 굶주린 거대한 독수리들이 탈진한 채 민가에서 자주 발견되자 주민들이 이들을 구조하기 위해 먹이를 주기 시작하면서 독수리들의 겨울 나들이가 더 활발해졌다.
그 수가 줄거나 늘기는 하지만 대체로 한 해 2,000마리 안팎의 독수리들이 이곳 민통선 주위에서 겨울을 난다. 이 자연의 청소부는 축산 농가에서 폐기한 동물의 사체들까지 깨끗이 치워줌으로써 인간과 자연이 공존하는 또 하나의 모델을 제시해 준다.
Toàn bộ khu vực hạn chế dân cư như bán đảo Jangdan thuộc thành phố Paju tỉnh Gyeonggi, khu vực ven sông Imjin thuộc thôn Duji, xã Jeokseong và hồ Togyo thị trấn Dongsong, huyện Cheorwon là nơi trú đông của một số ít đại bàng. Từ hai ba chục năm trước người ta thường xuyên phát hiện những con đại bàng khổng lồ bị đói đến kiệt sức ở nhà dân. Người dân bèn giúp cho chúng ăn. Từ đó những cuộc viếng thăm của những chú đại bàng vào mùa đông ngày càng trở nên dày đặc. Con số ấy lúc tăng lúc giảm khác nhau, nhưng nhìn chung khoảng 2.000 con đại bàng vào mùa đông quanh những khu vực hạn chế dân cư này. Những người lao công của thiên nhiên này lau dọn sạch sẽ xác động vật bỏ ngoài các nông trại chăn nuôi gia súc, từ đó cung cấp một mô hình chung sống hài hòa cho con người và tự nhiên
1979년 UNEP(유엔환경계획)가 국제 자연 평화생태 공원을 제안한 이후 여러 국제기구는 물론 한국 정부의 각 기관과 언론의 지원으로 다양한 조사와 연구가 이루어지고 있다. 이를 토대로 남북한 간에 DMZ의 평화적 이용을 다짐하는 합의가 여러 차례 이루어졌지만 약속은 늘 흐지부지 되었다. 평화를 담보로 한 협상의 결과였기 때문이다.
함민복 시인은 「모든 경계에는 꽃이 핀다」는 놀라운 제목의 시에서 이렇게 경고한다. “눈물이 메말라/ 달빛과 그림자의 경계로 서지 못하는 날/ 꽃철책이 시들고/ 나와 세계의 모든 경계가 무너지리라”.
Năm 1979, chương trình Môi trường Liên Hợp quốc (UNEP) sau khi đề xuất dự án công viên sinh thái hoà bình quốc tế đã bắt đầu điều tra và nghiên cứu đa chiều dưới sự hỗ trợ của các cơ quan chính phủ và truyền thông Hàn Quốc. Trên cơ sở đó, các hiệp ước cam kết khai thác DMZ một cách hòa bình giữa hai miền đã được diễn ra nhiều đợt, nhưng những lời hứa hẹn luôn trở thành những lời nói suông. Bởi đó là kết quả của hiệp thương lấy hoà bình làm vật thế chấp.
Trong bài thơ với tiêu đề gây sốc “Ở mọi biên cương hoa đều nở”, nhà thơ Ham Min-bok từng cảnh cáo như thế này: “Vào ngày nước mắt cạn khô/ Khi không thể giữ làn ranh giữa ánh trăng và chiếc bóng/ Hàng rào hoa sẽ héo tàn/ Mọi ranh giới giữa ta và thế giới sẽ vỡ tan”.
이창기 (Lee Chang-guy, 李昌起) 시인, 문학평론가
Lee Chang-guy: Nhà thơ, Nhà phê bình văn học
Ảnh: Ahn Hong-beom, Han Dae-in
Dịch: Phạm Quỳnh Giang