<미술이 문학을 만났을 때>는 국립현대미술관 덕수궁의 올해 첫 기획전으로 1930~50년대 활발했던 예술가들을 조명한다.
특히 이 전시는일제강점기와 한국전쟁을 겪었던 불행한 시대에 화가와 문인들의 교류가 어떤 예술적 성취를 낳았는지에 초점을 맞춰 큰 화제가 되었다.
“Khi Nghệ thuật gặp gỡ Văn chương” là triển lãm đầu tiên trong năm của Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại và Hiện đại Quốc gia Hàn Quốc (MMCA) tại Deoksugung (Cung Đức Thọ) nhằm vinh danh các nghệ sĩ hoạt động năng nổ trong giai đoạn 1930 – 1950. Đặc biệt, triển lãm này tập trung vào những thành tựu nghệ thuật của sự giao lưu giữa các họa sĩ, nhà văn trong thời kỳ Nhật trị và chiến tranh Triều Tiên.
1. <인형이 있는 정물>. 구본웅(具本雄 1906~1953). 1937. 캔버스에 유채. 71.4× 89.4 ㎝. 삼성미술관 리움 소장. “Still Life with a Doll” (tạm dịch “Tĩnh vật với búp bê”) của Gu Bon-woong (1906-1953). 1937. Tranh sơn dầu. 71,4 x 89,4 cm. Bảo tàng Nghệ thuật Leeum, Samsung구본웅은 인상파 위주의 아카데미즘이 유행하던 시기에 야수파의 영향을 받아 새로운 시도를 감행했다. 화면에 그려진프랑스 미술 잡지 『Cahiers d’Art』를 통해 알 수 있듯 구본웅과 그의 지인들은 서구의 새로운 문화 예술 경향을 동시대적으로 향유했다. Khi giới học thuật tập trung vào Chủ nghĩa ấn tượng đang thịnh hành, Gu Bon-woong say mê với chủ nghĩa trừu tượng. Theo đề nghị của tạp chí Nghệ thuật Pháp “Cahiers d’Art” trong bức tranh này, Gu Bon-woong và những người bạn của ông có xu hướng tán dương nghệ thuật đương đại của các nước phương Tây.
1930년대는 일제 식민 통치가 더욱 혹독해진 암흑기였지만, 한편으로는 근대화가 진행되며 한국 사회에 그 어느 때보다 큰 변화가 일어난시기이기도 했다. 특히 경성(일제 강점기의 서울)은 신문물이 다른 지역보다 먼저 유입되면서 많은 것들이 달라졌다. 포장된 도로에는 전차와 자동차가 달리고, 화려한 고급 백화점들이들어섰다. 거리에는 새로운 유행을 앞서 받아들여 뾰족구두를 신은 모던 걸과 양복 차림의 모던 보이들이 가득했다.
Thập niên 1930 là thời kỳ tăm tối trong lịch sử Hàn Quốc, khi mà sự thống trị của thực dân Nhật trở nên hà khắc hơn bao giờ hết. Đồng thời, đây cũng là giai đoạn diễn ra quá trình cận đại hoá xã hội Hàn Quốc. Đặc biệt, Gyeongseong (Kinh Thành, tên gọi của Seoul thời Nhật trị) du nhập văn hóa mới sớm hơn các vùng khác và có nhiều biến chuyển. Xe điện và ô tô lăn bánh trên những con đường rải nhựa, các trung tâm thương mại sang trọng mọc lên, đường phố tràn ngập những người trẻ tiếp nhận xu hướng mới với những cô gái tân thời đi giày cao gót và những chàng trai tân thời mặc âu phục.
현실에 대한 절망과 근대의 낭만이 혼재했던 경성은 예술가들의도시이기도 했다. 당시 경성의 예술가들은 너나없이 다방으로 모여들었다. 중심가 골목 곳곳에 즐비한 다방은 단순히 커피만 파는 가게가 아니었다. 예술가들은 이국적 실내 장식과 커피 향기속에 울려 퍼지는 엔리코 카루소(Enrico Caruso)의 노래를 들으며 아방가르드 예술에 관해 이야기했다.
Gyeongseong – nơi xen lẫn sự tuyệt vọng về thực tại và sự lãng mạn thời cận đại – là thành phố của những nghệ sĩ. Tất cả các nghệ sĩ của Gyeongseong thời bấy giờ đều đổ xô đến quán cà phê. Những quán cà phê san sát khắp mọi ngõ hẻm khu trung tâm không đơn thuần là nơi bán cà phê. Các nghệ sĩ vừa lắng nghe ca khúc của Enrico Caruso trong làn hương cà phê lan tỏa với không gian bài trí theo phong cách nước ngoài vừa bàn luận về nghệ thuật Tiên phong (Avant-garde).
카루소와 아방가르드 예술 – Caruso và Nghệ thuật Tiên phong
식민지 국민의 가난과 절망이 예술의 혼마저 꺾을 수는 없었다. 그리고 고난 속에 피어난 창작의열정 뒤에는 시대의 아픔을 공유하며 함께 살아갈 방도를 찾았던 예술가들의 우정과 협업이 있었다.이 ‘역설적 낭만’의 시대를 돌아보는 국립현대미술관 덕수궁의 <미술이 문학을 만났을때> 전시는 연일 많은 관람객들을 불러 모았다. 근대를 대표하는 50여 명의 예술가들을 소개하는 이 전시는 제목이 말해주듯 화가와 시인, 소설가들이 장르의 벽을 넘어 서로 어떻게교류하고 영향을 주고받으며 예술적 이상을 펼쳐냈는지 돌이켜본다.
Sự nghèo đói và tuyệt vọng của người dân dưới ách thống trị của thực dân đã không thể phá vỡ linh hồn nghệ thuật. Đằng sau niềm đam mê sáng tác nở rộ trong gian khó là tình bạn và sự hợp tác của các nghệ sĩ, những con người cùng nhau san sẻ nỗi đau thời đại và tìm kiếm con đường để cùng tồn tại. Triển lãm “Khi Nghệ thuật gặp gỡ Văn chương” của Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại và Hiện đại Quốc gia Hàn Quốc (MMCA) tại Deoksugung tái hiện thời kỳ “Ngược dòng Lãng mạn” đã thu hút rất nhiều khách tham quan suốt nhiều ngày. Như tên gọi, triển lãm giới thiệu hơn 50 nghệ sĩ tiêu biểu trong thời kỳ cận đại, đưa người xem quay về giai đoạn các họa sĩ và nhà thơ, nhà văn đã nỗ lực thoát ra khỏi ranh giới của các thể loại nghệ thuật để giao lưu, tương tác và thể hiện lý tưởng nghệ thuật.
전시는 4개의 주제로 요약된다. ‘전위와 융합’을 주제로 한 제1 전시실은 시인이며 소설가, 수필가이기도했던 이상(李箱 1910~1937)이 운영한 다방 ‘제비’와 그곳을 사랑했던 예술가들의 관계에 집중한다. 건축을 전공한 이상은 학교 졸업 후 한동안 조선총독부에서 건축기사로 일하기도했는데, 폐결핵으로 인해 직장을 그만두고 다방을 차렸다. 단편소설 「날개」와 실험주의적 시 「오감도」 등 강렬한 초현실주의적 작품으로 널리 알려진 그는 1930년대 한국 모더니즘 문학을개척한 대표적 작가로 평가받는다.
Triển lãm được chia thành bốn chủ đề. Với chủ đề “Tiên phong và hợp nhất”, phòng trưng bày số 1 xoay quanh quán cà phê có tên “Jebi” (Chim én) do nhà thơ, nhà văn kiêm nhà tùy bút Yi Sang (Lý Tương, 1910-1937) làm chủ và mối quan hệ giữa những nghệ sĩ đã từng yêu mến nơi đây. Yi Sang học chuyên ngành kiến trúc; sau khi tốt nghiệp, ông làm kiến trúc sư tại Phủ Thống đốc Triều Tiên của Nhật Bản một thời gian, nhưng ông đã nghỉ việc vì bệnh lao và mở quán cà phê. Nổi tiếng với những tác phẩm thấm nhuần Chủ nghĩa siêu thực như truyện ngắn “Đôi cánh” (tựa đề tiếng Anh là “The Wings”) và bài thơ mang hơi hướng Chủ nghĩa thực chứng (positivism) “Crow’s Eye View” (tạm dịch “Tầm mắt của chim khách”), Yi Sang được xem là nhà văn tiêu biểu tiên phong cho nền văn học theo chủ nghĩa hiện đại giai đoạn 1930 của Hàn Quốc.
제비는 희멀건 벽에 이상의 자화상 한 점과 어릴 적부터의 친구 구본웅(具本雄 1906~1953)의 그림 몇 점만이 걸려 있었다고 한다.별다른 실내 장식도 없는 초라한 공간이었지만 이곳은 가난한 예술가들의 사랑방 역할을 톡톡히 해냈다. 구본웅을 위시해 이상과 친분이 두터웠던 소설가 박태원(朴泰遠 1910~1986),시인이자 문학평론가 김기림(金起林 1908~?) 등이 이곳에 주로 드나들었다. 이들은 이 다방에 모여 앉아 문학과 미술뿐 아니라 영화, 음악 등 다양한 장르의 최신 경향과 작품에 대해대화를 나누며 영감을 얻었다. 이들에게 제비는 단순한 사교 공간이 아니라 최첨단 사조를 흡수하며 예술적 자양분을 얻었던 창작의 산실이었다. 특히 장 콕토(Jean Cocteau)의 시와르네 클레르(René Clair)의 전위적인 영화는 이들에게 큰 관심사였다. 이상은 장 콕토의 경구들을 다방에 걸어두었으며, 박태원은 파시즘을 풍자하는 르네 클레르의 <최후의억만장자(Le Dernier milliardaire)>(1934)를 패러디해 식민지 현실을 위트 있게 꼬집은 작품 「영화에서 얻은 콩트: 최후의 억만장자」를 쓰기도 했다.
Trên bức tường ngả màu của quán Jebi chỉ treo một bức chân dung của Yi Sang và một số bức tranh về người bạn thiếu thời của ông là Gu Bon-woong (Cụ Bổn Hùng, 1906-1953). Tuy chỉ là một không gian đơn sơ, không cầu kỳ bài trí nội thất nhưng nơi này được dùng làm nơi tiếp đón các nghệ sĩ nghèo. Cùng với Gu Bon-woong, những người có mối thâm giao với Yi Sang là tiểu thuyết gia Park Tae-won (Phác Thái Viên, 1910-1986), nhà thơ kiêm nhà phê bình văn học Kim Ki-rim (Kim Khởi Lâm, 1908-?) cũng thường lui tới nơi này. Họ tụ hội để lấy cảm hứng sáng tác và chia sẻ các xu hướng, tác phẩm mới nhất của nhiều thể loại không chỉ văn học, mỹ thuật mà còn phim ảnh, âm nhạc…. Đối với họ, Jebi không chỉ đơn thuần là không gian giao lưu mà còn là cái nôi của sự sáng tạo, tiếp nhận xu hướng tân thời và tinh hoa nghệ thuật. Đặc biệt, mối quan tâm lớn của họ là những bài thơ của Jean Cocteau và những bộ phim tiên phong của René Clair. Yi Sang treo những câu danh ngôn của Jean Cocteau ở quán và Park Tae-Won viết tác phẩm “Câu chuyện trong phim: Tỷ phú cuối cùng” phỏng theo phim hài châm biếm chủ nghĩa phát xít “Le Dernier milliardaire” (tựa đề tiếng Anh là “The Last Billionaire”) của đạo diễn René Claire (1934); tác phẩm lột tả dí dỏm hiện thực của thuộc địa.
이들의 작품에서 드러나는 서로의 흔적과 친밀했던 관계가 매우 흥미롭다. 구본웅이 그린 <친구의 초상>(1935) 속 삐딱한 인상의 주인공은 이상이다. 둘은 네살의 나이 차이가 났지만, 학창 시절부터 항상 붙어 다니며 죽이 잘 맞았다. 김기림은 구본웅의 파격적인 야수파 화풍에 누구보다 찬사를 보낸 사람이었다. 또한 그는 이상이 27살의 젊은나이에 세상을 떠나자 이를 안타까워하며 그의 작품을 모아 『이상 선집』(1949)을 냈는데, 이것이 이상의 첫 작품집이었다. 이상 역시 김기림의 첫 번째 시집『기상도(氣象圖)』(1936)의 장정을 맡았다. 그런가 하면 이상은 박태원의 중편소설 「소설가 구보씨의 일일」(1934)이 조선중앙일보에 연재될 때 삽화도 그렸다. 박태원의 독특한 문체와이상의 초현실적인 삽화는 독창적인 지면을 만들어 내며 큰 인기를 끌었다.
Những dấu tích của sự giao lưu và mối thâm giao xuất hiện trong các tác phẩm của họ thật sự rất thú vị. Trong bức họa mang tên “Chân dung một người bạn” (1935) của Gu Bon-woong, nhân vật chính với dáng người nghiêng ngả là Yi Sang. Tuy cách nhau bốn tuổi nhưng hai người rất tâm đầu ý hợp và luôn bên nhau từ những ngày còn đi học. Kim Ki-rim chính là người đi đầu tán dương phong cách hội họa theo trường phái Dã thú (Fauvism) phá cách của Gu Bon-woong. Đồng thời, ông tiếc thương cho bạn khi Yi Sang qua đời ở tuổi 27. Ông tập hợp các tác phẩm của bạn và xuất bản thành “Tuyển tập Lee Sang” (1949), đây là tuyển tập các tác phẩm đầu tiên của Yi Sang. Yi Sang cũng đảm nhận vai trò trang trí bìa cho tập thơ đầu tay của Kim Ki-rim “Khí tượng đồ” (tạm dịch “Bản đồ khí tượng”, 1936). Đồng thời, Yi Sang cũng đã vẽ tranh minh họa cho tiểu thuyết “Nhật ký của tiểu thuyết gia Gubo” (1934) của Park Tae-won khi tiểu thuyết được chọn đăng nhiều kỳ trên Nhật báo Trung ương Chosun. Văn phong độc lạ của Park Tae-won và tranh minh họa siêu thực của Yi Sang đã góp phần tạo nên các trang báo độc đáo, sáng tạo và thu hút sự chú ý.
<자화상>. 황술조(黃述祚 1904~1939). 1939. 캔버스에유채. 31.5 × 23 ㎝. 개인 소장. “Chân dung tự họa” của Hwang Sul-jo (1904-1939). 1939. Tranh sơn dầu. 31,5 x 23 cm. Bộ sưu tập cá nhân.
구본웅과 함께 같은 미술 단체에서 활동했던 황술조는 정물화, 풍경화, 인물화 등 다양한 장르를 섭렵하며독특한 화풍을 이루었다. 이 작품은 35세 젊은 나이에 요절하던 해에 그린 것이다. Hwang Sul-jo, người thuộc nhóm nghệ sĩ với Gu Bon-woong, đã hoàn thiện phong cách hội họa độc đáo, điêu luyện với các thể loại khác nhau bao gồm tranh tĩnh vật, phong cảnh và chân dung. Bức chân dung tự họa được hoàn thành vào năm ông qua đời ở tuổi 35.
1920~40년대 인쇄 미술의 성과를 보여주는 제2 전시실. 이 시기 간행되었던 표지가 아름다운 책들을 비롯해 신문사들이 발행했던 각종 잡지와삽화가들의 작품이 전시되었다. Phòng triển lãm số 2 trưng bày các ấn phẩm giai đoạn 1920-1940. Các ấn phẩm giới thiệu đến người xem đều là những quyển sách có bìa trang trí đẹp mắt và các tạp chí có tranh minh họa của các họa sĩ, hầu hết được xuất bản bởi các tòa soạn báo thời bấy giờ.
『청색지(靑色紙)』 제5집. 1939년 5월 발행. (왼쪽)『청색지(靑色紙)』 제8집. 1940년 2월 발행. ⓒ 아단(雅丹)문고(Adanmungo Foundation) Tạp chí “Cheongsaekji” (Tạm dịch “Thanh sắc”), Số 5 phát hành tháng 5 năm 1939 (trái) và số 8 phát hành tháng 2 năm 1940. ⓒ 근대서지연구소
1938년 6월창간되어 1940년 2월 통권 8집을 마지막으로 종간된 『청색지』는 구본웅이 발행과 편집을 맡은 예술 종합 잡지이다. 문학을 위주로 연극, 영화, 음악, 미술 분야를망라했으며 당대의 유명 필진들이 참여하여 수준 높은 기사를 제공했다. “Cheongsaekji,” được xuất bản lần đầu tiên vào tháng 6 năm 1938 và kết thúc với số 8 phát hành tháng 2 năm 1940, là một tạp chí nghệ thuật tổng hợp do Gu Bon-woong biên tập và xuất bản. Tạp chí gồm nhiều bài báo chất lượng do các ngòi bút nổi tiếng sáng tác trong các lĩnh vực như văn học, sân khấu, điện ảnh, âm nhạc và mỹ thuật.
시와 그림의 만남 – Sự gặp gỡ giữa Thi và Họa
소설에 삽화를 곁들이는 방식은 예술가들에게 한시적으로나마 일정한 수입을 만들어 주었다. 동시에 신문이대중적이면서도 예술적 감각을 보여 주는 매체로 인식되는 데 기여했다. Trong một giai đoạn nào đó, việc thêm hình ảnh minh họa vào tiểu thuyết đã tạo nên một khoản thu nhập nhất định cho các nghệ sĩ. Đồng thời, hình thức này góp phần nâng cao nhận thức rằng báo chí là phương tiện truyền thông đại chúng nhưng cũng mang đến cảm xúc nghệ thuật.
정갈한 도서관을 연상시키는 제2 전시실은 1920~40년대 발행된 신문과 잡지, 책을 중심으로 당시 인쇄매체가 이뤄낸 이 같은 성과를 집대성했다. ‘지상(紙上)의 미술관’을 제목으로 한 이 전시는 안석주(安碩柱 1901~1950)를 필두로 대표적인 삽화가 12명의 작품을 곁들인 신문 연재소설들을 한 장 한 장 넘겨볼 수 있도록 구성해 색다른 느낌을 선사했다.
Phòng trưng bày số 2 khiến người xem liên tưởng đến một thư viện gọn gàng; nơi đây tập hợp thành tựu các ấn phẩm truyền thông chính gồm báo, tạp chí, xuất bản giai đoạn 1920-1940. Với chủ đề “Bảo tàng mỹ thuật trên giấy”, triển lãm tạo cảm giác mới lạ khi người xem có thể trực tiếp lật từng trang tiểu thuyết được đăng nhiều kỳ trên các báo kèm theo tác phẩm của 12 họa sĩ vẽ tranh minh họa tiêu biểu, đứng đầu là Ahn Seok-Ju (1901-1950).
당시 신문사들은 잡지도 발간했는데, 이를 통해 시에 삽화를 입힌 ‘화문(畵文)’이라는 장르가 본격등장했다. ‘가난한 내가/아름다운 나타샤를 사랑해서/오늘밤은 눈이 푹푹 나린다’로 시작하는 백석(白石 1912~1996)의 시 <나와 나타샤와 흰 당나귀>에 정현웅(鄭玄雄1911~1976)이 그림을 그린 1938년도 작품이 대표적이다. 주황색과 흰 여백이 인상적인 이 그림은 백석의 시를 닮아 아련한 정감 속에 묘한 공허감을 자아낸다. 이 작품은 두 사람이같이 만들었던 조선일보사 발행 문예잡지 『여성』에 실렸다.
Các tòa soạn báo thời đó cũng đã xuất bản tạp chí; theo đó, thể loại “Hwamoon” (Họa Văn) – thêm tranh vào thơ – chính thức ra đời. Điển hình là bài thơ ra mắt năm 1938 của Baek Seok (Bạch Thạch, 1912–1996) mang tên “Natasha, Chú lừa trắng và Tôi” (tựa đề tiếng Anh là “Natasha, the White Donkey, and Me”) bắt đầu với câu “Đêm nay tuyết rơi mãi /Vì kẻ nghèo tôi /Yêu Natasha xinh đẹp” do họa sĩ Jeong Hyeon-ung (Trịnh Huyền Hùng, 1911-1976) vẽ tranh. Giống với lời thơ của Baek Seok, bức tranh gây ấn tượng bởi những đường nét màu cam xen trên nền trắng tạo cảm giác trống vắng đến lạ kỳ trong tình cảm mơ hồ. Tác phẩm được đăng trên Tạp chí nghệ thuật “Phụ nữ” do hai người cùng sáng lập và được Tòa soạn Nhật báo Chosun phát hành.
세련된 언어 감각을 바탕으로 향토색 짙은 서정시들을 발표했던 백석과 삽화가로 이름을 날렸던 화가 정현웅은 신문사동료로 시작한 관계였음에도 각별한 우정을 나누었던 것으로 전해진다. 정현웅은 옆자리에 앉아 일하는 백석을 종종 감탄하며 바라보았다. 열심히 일하는 그의 모습을 그리고 그 얼굴이‘조상(彫像)과 같이 아름답다’는 찬사를 쓴 짧은 글 「미스터 백석」(1939)을 『문장』이라는 잡지에 발표하기도 했다. 그들의 우정은 직장을 떠나서도 이어졌다. 1940년 훌쩍 만주로떠나버린 백석은 「북방에서 – 정현웅에게」라는 시를 지어 보냈고, 남북 분단 이후 1950년 월북한 정현웅은 북에서 백석과 다시 만나 그의 시를 꾸려 시집으로 엮어냈다. 그 시집의뒤표지에는 ‘미스터 백석’보다 더 중후한 모습의 백석이 그려져 있다.
Baek Seok là nhà thơ nổi tiếng với những thi phẩm trữ tình đậm màu sắc quê hương nhờ tài năng ngôn ngữ tinh tế còn Jeong Hyeon-ung là họa sĩ thành danh với tư cách là họa sĩ vẽ tranh minh họa. Hai ông nổi tiếng với một tình bạn đặc biệt tuy ban đầu chỉ là đồng nghiệp ở một tòa soạn. Jeong Hyeon-ung luôn hâm mộ Baek Seok, người ngồi làm cạnh mình. Ông đã vẽ Baek Seok đang chăm chỉ làm việc, đăng bài viết ngắn với tựa đề “Mr. Baek Seok” (1939) ngợi ca người bạn tận tâm, mẫn cán với khuôn mặt “đẹp như tạc tượng” trên tạp chí “Munjang” (tạm dịch “Văn chương”). Tình bạn này vẫn duy trì ngay cả sau khi hai ông nghỉ việc ở tòa soạn. Baek Seok rời đến Mãn Châu xa xôi vào năm 1940 và gửi bài thơ do ông sáng tác với tựa đề “Gửi Jeong Hyeon-ung từ phương Bắc”. Sau khi hai miền Nam – Bắc bị chia cắt, Jeong Hyeon-ung gặp lại Baek Seok tại Triều Tiên; ông đã tổng hợp và in tập thơ của Baek Seok. Bìa sau của tập thơ vẽ hình ảnh Baek Seok oai nghiêm hơn so với “Mr. Baek Seok”.
식민지 국민의 가난과 절망이 예술의 혼마저 꺾을 수는 없었다. 그리고 고난 속에 피어난 창작의 열정 뒤에는 시대의 아픔을 공유하며 함께살아갈 방도를 찾았던 예술가들의 우정과 협업이 있었다. Sự nghèo đói và tuyệt vọng của người dân dưới ách thống trị của thực dân đã không thể phá vỡ linh hồn nghệ thuật. Đằng sau niềm đam mê sáng tác nở rộ trong gian khó là tình bạn và sự hợp tác của các nghệ sĩ, những con người cùng nhau san sẻ nỗi đau thời đại và tìm kiếm con đường để cùng tồn tại.
2. 「나와 나타샤와 흰 당나귀」. 백석(白石 1912~1996), 정현웅(鄭玄雄1911~1976). “Natasha, Chú lừa trắng và Tôi” của Baek Seok (1912-1996) và Jeong Hyeon-ung (1911-1976). 아단문고 제공.
시인 백석이 조선일보사가 발행하던 잡지 『여성(女性)』 제3권 제3호(1938년 3월 발행)에 발표한 시에화가 정현웅이 그림을 곁들인 ‘화문(畵文)’이다. 당시에는 글과 그림이 조화를 이룬 화문이라는 장르를 통해 문인과 화가들이 서로 교류하는 일이 잦았다. Bài thơ có ảnh minh họa này được đăng trên tạp chí “Phụ nữ” do Tòa soạn Nhật báo Chosun phát hành vào tháng 3 năm 1938. Sự phối hợp của nhà thơ Baek Seok và nghệ sĩ Jeong Hyeon-ung thể hiện sự giao lưu thường xuyên giữa các nhà văn và họa sĩ theo thể loại Họa Văn mới (“văn minh họa”).
3. <시인 구상의 가족>. 이중섭(李仲燮 1916~1956). 1955.종이에 연필, 유채. 32 × 49.5 ㎝. 개인 소장. “Gia đình nhà thơ Gu Sang” của Lee Jung-seop (1916-1956). Năm 1955. Tranh sơn mài. 32 x 49,5 cm. Bộ sưu tập cá nhân.
한국전쟁 직후 시인 구상의 집에서 기거하던 이중섭이 일본에 있는 자신의 가족을 그리워하며친구 가족의 단란한 모습을 화폭에 담았다. Lee Jung-seop – ở nhờ nhà của nhà thơ Gu Sang trong chiến tranh Triều Tiên, đã vẽ ảnh gia đình hạnh phúc của Gu Sang, khi nhớ vợ và hai con trai đang ở Nhật Bản.
1. 현대문학사에서 1955년 1월 창간한 문학 잡지 『현대문학』의 표지들. 장욱진(張旭鎭 1918~1990), 천경자(千鏡子1924~2015), 김환기(金煥基 1913~1974) 등 내로라하는 화가들의 그림이 표지를 장식하고 있다. “현대문학” là một tạp chí văn học được sáng lập vào tháng 1 năm 1955 trong lịch sử văn học hiện đại. Trên các bìa của tạp chí này, được trang trí bằng những bức tranh của các họa sĩ nổi tiếng như 장욱진 (張旭鎭 1918~1990), 천경자 (千鏡子 1924~2015), 김환기 (金煥基 1913~1974) và nhiều họa sĩ khác.
화가의 글과그림 – Tranh và lời bình của họa sĩ
‘이인행각(二人行脚)’을 주제로 한 제3 전시실은 1930~50년대로 시대적 배경을 확장해 예술가들의 개인적 관계에 더욱 초점을 맞췄다. 동시대의문인과 화가들은 물론 다음 세대 예술가들과의 인적 관계에서도 중심에 섰던 인물은 김기림이었다. 그는 신문 기자라는 위치를 십분 활용해 많은 예술가들을 발굴하는 데 앞장섰으며,평론을 통해 뛰어난 작품들을 소개했다. 그런 역할을 이어받았던 이로 김광균(金光均 1914~1993)을 들 수 있다. 시인인 동시에 사업가였던 그는 우수한 예술가들을 경제적으로지원했다. 그래서 이 전시실의 여러 작품들이 그의 소장품이었다는 사실은 그다지 놀라운 일이 아니다.
Phòng trưng bày thứ 3 với chủ đề “Nhị nhân hành cước” (tạm dịch “Hai người du phương”) mở rộng bối cảnh thời đại sang giai đoạn 1930 – 1950 và tập trung sâu hơn vào mối quan hệ cá nhân của các nghệ sĩ. Kim Ki-rim là nhân vật trung tâm của mối quan hệ với các nhà văn, họa sĩ cùng thế hệ cũng như với các nghệ sĩ đời sau. Với cương vị phóng viên, ông tiên phong trong việc phát hiện nhiều nghệ sĩ và giới thiệu những tác phẩm xuất sắc qua các bài phê bình văn học. Có thể kể đến người kế nhiệm vai trò này là Kim Gwang-gyun (Kim Quang Vận, 1914-1993). Ông vừa là nhà thơ vừa là doanh nhân đã hỗ trợ kinh tế cho các nghệ sĩ xuất sắc. Do vậy, không có gì ngạc nhiên với việc một vài tác phẩm trong phòng trưng bày này thuộc sở hữu của ông.
이곳에서 많은 관람객들의 발걸음을 멈추게 한 그림은 단연코이중섭(李仲燮 1916~1956)이 그린 <시인 구상의 가족>(1955)일 것이다. 그림 속 이중섭은 구상(具常 1919~2004)의 가족을 부러운 듯 바라보고 있다.한국전쟁 중 생활고로 인해 일본의 처가로 떠난 가족과 헤어져 지내던 시기, 이중섭은 작품을 팔아 돈을 벌어 가족과 다시 만날 수 있기를 바랐다. 그러나 어렵게 개최한 전시회가계획했던 대로 돈을 마련하는 데 실패하자 자포자기했고, 당시 그런 심경이 이 그림에 잘 나타나 있다. 그의 일본인 아내가 남편의 소식을 궁금해하며 구상에게 보낸 편지가 나란히전시되어 있어 전쟁이 가져온 가난과 병고 속에서 일찍 세상을 떠난 천재 화가와 그 가족의 사연을 다시 한번 되돌아보게 한다.
Tại đây, bức tranh khiến nhiều người xem phải dừng chân chắc hẳn là bức “Gia đình nhà thơ Gu Sang” (1955) của họa sĩ Lee Jung-seob (Lý Trọng Tiếp, 1916-1956). Trong tranh, Lee Jung-seob nhìn gia đình Gu Sang (Cụ Thường, 1919-2004) với vẻ thèm muốn pha chút ghen tị. Do cuộc sống khó khăn, ông phải sống xa gia đình nhỏ của mình khi vợ con quay về nhà ngoại ở Nhật Bản. Lee Jung-seob bán tranh để kiếm tiền với mong ước có thể gặp lại gia đình. Tuy nhiên, cuộc triển lãm gian nan lắm mới thực hiện được cũng không thể kiếm đủ tiền như kế hoạch, ông tuyệt vọng và thể hiện tâm tư này rất rõ trong các sáng tác của mình. Những bức thư do người vợ Nhật Bản gửi đến thăm hỏi tình hình của Gu Sang được bày liền kề giúp người xem ngược dòng câu chuyện về một họa sĩ thiên tài sớm rời xa cuộc đời trong bệnh tật và nghèo khổ vì chiến tranh.
‘화가의 글∙그림’을 보여 주는 마지막전시실에서는 일반적으로 화가로 알려져 있으나 글쓰기에도 남다른 경지에 이르렀던 6명의 예술가를 만날 수 있다. 단순하고 순수한 것들의 아름다움을 찬미했던 장욱진(張旭鎭1918~1990), 평생 산을 사랑했던 박고석(朴古石 1917~2002), 독특한 화풍뿐 아니라 내면에 솔직한 글로 대중의 사랑을 받았던 천경자(千鏡子 1924~2015)가포함되었다. 그중 전시의 말미에 눈길을 사로잡는 것이 김환기(金煥基 1913~1974)의 ‘전면점화’ 네 작품이다. 가까이 다가가 수많은 작은 점들이 빼곡히 박힌 소우주를 바라보고있으면 앞서 지나온 문인과 화가들의 이름이 하나하나 떠오른다. 어두운 시대에 별처럼 빛났던 그들을 이제 비로소 한자리에 불러 모은 듯하다.
Phòng cuối cùng trưng bày chủ đề “Tranh và lời bình của họa sĩ”. Người xem có thể gặp gỡ sáu họa sĩ nổi tiếng đồng thời cũng nổi danh trong giới cầm bút. Tiêu biểu có họa sĩ Jang Wook-jin (Trương Húc Chấn, 1918-1990) luôn ngưỡng mộ vẻ đẹp của những điều giản dị, thuần khiết, họa sĩ Park Ko-suk (Phác Cổ Thạch, 1917-2002) cả đời yêu núi non, họa sĩ Chun Kyung-ja (Thiên Cảnh Tử, 1924-2015) với phong cách hội họa độc đáo và ngòi bút chân thực. Điều thu hút người xem ở cuối phòng trưng bày là bốn tác phẩm Hội họa điểm sắc (Dot paintingcủa Kim Whan-ki (Kim Hoán Cơ, 1913-1974). Càng đến gần và nhìn vào vũ trụ thu nhỏ với hằng hà những dấu chấm sẽ gợi cho người xem nhớ lại tên của từng nhà văn, họa sĩ với các tác phẩm vừa thưởng lãm. Đây dường như là nơi hội tụ của những con người tỏa sáng tựa các vì sao trong thời đại tăm tối.
2. <18-II-72 #221>. 김환기. 1972. 코튼에 유채. 49 × 145 ㎝. “18 × 11 × 72 # 221” của Kim Whan-ki. 1972. Tranh sơn dầu. 48 x 145,5 cm. ⓒ환기재단․환기미술관
문학에 조예가 깊었던 화가 김환기는 여러 잡지에 삽화를 곁들인 수필을 발표했으며, 시인들과도 가깝게 지냈다. 말년의 김환기를 대표하는서정적인 추상화 ‘전면점화(全面點畵)’는 그가 뉴욕에 머무르던 1960년대 중반부터 시작되는데, 그 시기 시인 김광섭(金珖燮 1906~1977)에게 보낸 편지에서도 단초가발견된다. Kim Whan-ki, tinh thông văn học và gần gũi với nhiều nhà thơ, viết bài với tranh minh họa trên nhiều tạp chí khác nhau. Những bức họa điểm sắc trừu tượng trữ tình đánh dấu giai đoạn cuối trong sự nghiệp của Kim Whan-ki bắt đầu từ giữa những năm 1960, khi ông ở New York. Độc giả có thể bắt gặp những bức họa điểm sắc trong các bức thư ông gửi cho nhà thơ Kim Gwang-seop (1906-1977). © Quỹ Whan-ki; Bảo tàng Whan-ki
최주현(Choi Ju-hyun 崔珠賢) 『아트인사이트(Artinsight)』 에디터
Choi Ju-hyun: Biên tập viên kiêm Artinsight
Dịch: Lê Hoàng Bảo Trâm