목포, 생이 뮤즈로 다가오는 공간 Mokpo, Nơi cuộc sống là không gian cảm hứng

0
1282

목포는 식민지 거점도시로서 아픈 근대사를 지닌 항구도시다. 이 도시에 대해 한국인이 지닌 감정은 특별한 것이다. 그림 같은 기암괴석이 병풍을 이루는 해발 228m의 유달산에 오르면 옛 정취가 아련한 도심과 그 너머 바다가 한눈에 들어온다.
Mokpo là thành phố cảng mang trong mình nỗi đau của một căn cứ thuộc địa thời cận đại. Tình cảm người Hàn dành cho thành phố này khá đặc biệt. Ở độ cao 228 m so với mực nước biển, từ núi Yudal, ngọn núi được hình thành từ những khối đá có hình thù kỳ lạ như chỉ có trong tranh, biển và thành phố nằm thu trọn trong tầm mắt, rạo rực cùng cảm xúc về chuỗi ngày đã qua.

밤기차는 목포를 향해 달린다. 창 밖으로 밤의 마을들이 스쳐 지나간다. 빗방울을 머금은 마을의 불빛들이 푸른색의 꽃처럼 보인다. 마을의 불빛만큼 슬프고 아름답고 신비한 이야기가 또 있을까.
Chuyến tàu đêm vẫn băng băng, thẳng hướng Mokpo. Ngoài cửa sổ, từng ngôi làng lướt qua trong đêm tối. Ánh đèn loang loáng từ những mái nhà còn ướt mưa đêm nhìn hệt như những đóa hoa xanh. Không gian toát lên câu chuyện buồn thật đẹp nhưng cũng thật kỳ bí.

밤 기차 속에서 Trong chuyến tàu đêm
나는 여덟 살 때 최초의 여행을 했다. 마을의 불빛이 얼마나 따스하고 아름다운 세계를 표시하는지 이 짧은 여행이 내게 일러 주었으니, 뒷날 내가 세상 이곳 저곳을 떠돌아다닐 수 있었던 힘도 이 불빛들에서 비롯된 것이다.
세상을 떠돌며 살았던 아버지는 한 철에 한번쯤 집에 들르곤 했다. 나는 내심 아버지의 귀가가 싫지 않았는데 그것은 아버지가 사 들고 오는 선물 때문이었다. 아버지는 18가지 색상의 크레파스를 사오기도 했고 동화책을 사오기도 했으며 사탕이 담긴 상자를 내밀기도 했다. 그러나 아버지가 집에 들르는 날은 아버지와 어머니가 싸움을 하는 날이기도 했다. 그날 아버지와 어머니의 싸움은 격렬했고 나는 집을 떠나 걷기 시작했다. 해가 저물고 어둠이 스며들 무렵 한 마을에 이르렀을 때 집들의 불빛이 반짝반짝 눈에 들어오는 것이었다.

Tôi thực hiện chuyến du hành đầu tiên của mình khi lên sáu. Chính nhờ chuyến đi ngắn ngủi ấy, tôi đã hiểu ánh đèn lung linh của những ngôi làng kia có thể khiến người ta thấy thế giới ấm áp, tươi đẹp biết bao. Ánh đèn ấy về sau đã trở thành nguồn sức mạnh giúp tôi bắt đầu những chuỗi ngày nay đây mai đó của mình.
Khi tôi còn nhỏ, cha cũng thường bôn ba khắp nơi và chỉ về nhà mỗi mùa một lần. Từ trong đáy lòng, tôi không ghét những lần cha trở về, nhưng đó thật ra là vì những món quà cha thường mua cho tôi. Đôi khi là bộ bút sáp 18 màu, là quyển truyện cổ tích, hay một hộp kẹo. Mỗi lần cha về, giữa cha và mẹ diễn ra những cuộc cãi vã. Hôm ấy, cha mẹ cãi nhau kịch liệt và tôi đã ra khỏi nhà. Tôi đặt chân đến một ngôi làng khi mặt trời đã lặn, bóng đêm bao phủ. Trước mắt tôi là những đốm sáng lung linh.

그 불빛들을 바라보는 동안 내 어린 마음 안의 따뜻한 물 같은 것이 몸 밖으로 스며 나오는 것을 느꼈다. 그때 누군가 나를 불렀다. 어디서 왔니? 자전거를 타고 지나던 아저씨였다. 그날 나는 그 아저씨의 집에서 하룻밤을 묵었다. 방 안에는 놀랍게도 동화책이 가득 쌓여 있었다. 몇 권을 읽었는지 모르겠다. 다음날 아침이 밝았을 때 아저씨의 집을 볼 수 있었다. 기와집이었고 마당에 꽃밭이 있었다. 담장을 따라 딸기 넝쿨이 자라고 있었다. 아저씨가 물뿌리개로 꽃밭에 물을 주자 국수가닥처럼 쏟아지는 물줄기 사이에 작은 무지개가 일었다.

Tôi chăm chú ngắm nhìn và cảm giác từ tận đáy lòng, một dòng nước âm ấm đang trào ra. Chợt tôi nghe có tiếng gọi. “Con từ đâu đến?”. Là giọng một người đàn ông trên chiếc xe đạp. Đêm hôm ấy, tôi ngủ lại nhà ông, trong một căn phòng có rất nhiều truyện trẻ em. Tôi không nhớ mình đã đọc bao nhiêu quyển. Sáng hôm sau thức dậy, tôi bắt đầu quan sát. Đó là một căn nhà xây theo kiểu truyền thống, trước sân có trồng hoa, xung quanh là hàng rào với những cành dâu. Người đàn ông đêm qua đang phun nước tưới hoa. Giữa những tia nước nhìn như những vắt mì tuôn dài trong mắt tôi khi ấy thấp thoáng các ánh cầu vồng.

Bài “Nước mắt Mokpo” Lee Nan-yeong thể hiện năm 1935 trong lần đầu ra mắt công chúng đã làm rung động những người Hàn đang hứng chịu nỗi đau thời thuộc địa Nhật. Với bài hát này, cô đã trở thành ngôi sao được người Hàn trên khắp đất nước yêu mến. Trong hình là bìa tuyển tập album “Các bài hát được yêu thích nhất của Lee Nan-yeong” năm 1971.

목포의 눈물 Nước mắt Mokpo
목포는 한반도 남서쪽 끝에 자리한 인구 24만 명의 항구도시다. 1897년 개항 즈음에 이 항구의 가치를 눈 여겨 본 것은 일본이었다. 목포는 외부에서 한국 최대의 곡창지대인 전라도로 진입하는 최적의 위치에 자리하고 있었기 때문이다. 따라서 일본이 한국을 강제 병합한 1910년 이래 목포는 한국의 철도와 도로의 중요한 분기점이 되었다. 남에서 북으로 목포에서 서울을 거쳐 신의주에 이르는 국도 1호선이, 서에서 동으로 목포에서 부산에 이르는 국도 2호선이 닦이자, 이 두 도로와 철도를 통해 한국의 물자가 일본으로 이송되었다. 그러므로 목포는 식민지 시절 수탈의 역사 한 가운데 자리한 항구였던 것이다. 시인 김선우는 목포의 역사적 상처를 이렇게 노래했다.

Mokpo là thành phố cảng với 240 nghìn dân nằm ở phía tây nam cuối bán đảo Hàn. Năm 1897, khi Mokpo mở cửa cảng cũng lúc là Nhật bắt đầu nhận ra giá trị của thành phố này bởi vị trí vô cùng lý tưởng để tiếp cận vùng Jeolla –“vựa lúa” lớn nhất của Hàn Quốc. Ngay sau khi Hàn Quốc bị cưỡng chế sát nhập vào Nhật năm 1910, Mokpo trở thành giao điểm đường bộ, đường sắt quan trọng của cả nước. Tuyến Quốc lộ Số 1 nối liền Nam-Bắc, từ Mokpo qua Seoul đến Sinuiju và Tuyến Quốc lộ Số 2 nối hai miền Đông-Tây, từ Mokpo đến Busan, cùng tuyến đường sắt đã trở thành những con đường chính yếu để Nhật vận chuyển hàng hóa từ Hàn Quốc về nước. Có thể nói, Mokpo chính là thành phố cảng lịch sử nằm giữa tâm điểm của sự bóc lột thuộc địa. Nhà thơ Kim Seon-wu đã tả về nỗi đau lịch sử này của Mokpo trong bài thơ của mình.

Bài viết liên quan  전통시장: 즐길 거리가 가득한 체험 공간 - Chợ truyền thống: Không gian trải nghiệm đầy thú vị

가슴팍에 수십 개 바늘을 꽂고도 Hàng chục mũi kim, giữa tim
상처가 상처인줄 모르는 제웅처럼 Vẫn như bù nhìn rơm, đứng câm điếc.
피 한 방울 후련하게 흘려보지 못하고 Một giọt máu đỏ, chưa từng nhỏ
휘적휘적 가고 또 오는 목포항 Cảng Mokpo, tất tả ngược xuôi
아무도 사랑하지 못하고 아프기보다 Thà cuồng nhiệt để khi người ra đi, quằn quại
열렬히 사랑하다 버림받게 되기를 Hơn khoắc khoải, không thể yêu
떠나간 막배가 내 몸 속으로 들어온다 Giữa lòng cảng liêu xiêu… một con thuyền cuối trở về
–시 <목포항> 부분  (Trích đoạn bài thơ “Cảng Mokpo”)

“아무도 사랑하지 못하고 아픈” 역사가 식민지 시절 목포의 운명이었던 것이다. 인간의 노래는 이런 비극적 삶을 동무로 태어나기 마련이다. 목포에는 목포의 영혼을 담은 노래와 가수가 있다. 목포에서 태어난 가수 이난영(李蘭影1916~1965)은 1935년 <목포의 눈물> 이라는 노래를 발표하며 데뷔한다. 나라 잃은 설움과 슬픔을 달래주는 그의 노래는 당시 한국 사람들의 가슴을 깊게 휘저어 놓았다. 아코디언 반주에 맞춰 흐느끼는 비음으로 노래한 이 노래에서 당대의 사람들은 한국의 슬픈 운명과 그 역사의 춤을 보았다. 19세 처녀의 이 절창에서 사람들은 한국의 전통 소리인 판소리 가락의 유구한 한과 사라지지 않는 이야기의 숨결을 느꼈던 것이다.

Lịch sử với nỗi đau “không thể yêu”cũng chính là vận mệnh của Mokpo thời thuộc địa. Nhiều bài hát ra đời, như người bạn đồng hành tất yếu của cuộc sống đầy bi kịch. Đó là những bài hát mang đậm chất Mokpo do ca sĩ Mokpo thể hiện. Bài “Nước mắt Mokpo” do Lee Nan-yeong (1916-1965), ca sĩ sinh ra tại Mokpo, thể hiện năm 1935 trong lần đầu cô ra mắt công chúng chính là một trường hợp như thế. Trái tim người Hàn như rung lên cùng lời ca về nỗi đau mất nước. Khi tiếng hát giọng giả thanh của cô gái 19 tuổi cất lên, thổn thức theo tiếng phong cầm, người ta như thấy vận mệnh buồn cùng điệu vũ lịch sử hiển hiện trước mắt. Trong ấy, vừa có cái “hận” vốn có của giai điệu pansori truyền thống, vừa có hơi thở của những câu chuyện không thể quên.

“열렬히 사랑하다 죽어도 좋을” 현실이 망국민에게는 없다. 꿈꿀 수 없는 생의 목적지. 부두의 아가씨는 이별이 한없이 서럽고 아프다. 언제 우리 다시 만날 수 있을까. 새로운 세상에 대한 꿈은 요원하고 옷자락은 눈물에 젖는다.
목포 사람들은 이난영을 이야기할 때면 샹송가수 에디트 피아프(Edith Piaf 1915~1963)를 즐겨 떠올린다. 에디트 피아프와 이난영은 동시대의 삶을 살았고 데뷔 시기가 같았을 뿐 아니라 민족의 삶에 무한한 위로와 영감을 준 공통점이 있다. 에디트 피아프에게 <장미빛 인생>과 <사랑의 찬가>가 있다면 이난영에게 <목포의 눈물>과 <목포는 항구다>와 같은 노래가 있었다. 목포 시내를 내려다보는 유달산 기슭에는 이난영을 기리는 노래비가 서 있다.

“Thà yêu cuồng nhiệt để rồi chết” là một hiện thực không thể có với những kẻ mất nước. Một cái đích đến không dám mơ của cuộc đời. Với cô gái trẻ trên bến tàu, nỗi buồn biệt ly là vô tận. Lòng thầm nghĩ biết bao giờ được gặp lại, nước mắt cô thấm đẫm vạt áo. Giấc mơ về một thế giới mới càng xa vời.
Khi người Mokpo nói về Lee Nan-yeong, họ cũng thường nhớ đến ca sĩ của những bài nhạc Pháp Edith Piaf (1915-1963). Cả hai là những ca sĩ đồng đại, lần đầu ra mắt công chúng ở cùng một thời điểm. Không chỉ thế, họ còn gặp nhau ở những bài ca luôn là niềm an ủi, nguồn cảm hứng vô hạn cho cuộc sống người dân đất nước mình. Edith Piaf có “Hoa hồng và cuộc đời”, “Bài Thánh ca tình yêu”; Lee Nan-yeong có “Nước mắt Mokpo”, “Mokpo là hải cảng”. Chân núi Yudal, nơi nhìn xuống trung tâm Mokpo, cũng là nơi đặt tấm bia khắc lời bài hát của Lee.

Viện Bảo tàng Lịch sử Cận đại Mokpo được đặt ở nơi xưa kia vốn là Công ty Khai thác Thuộc địa Phương Đông, chi nhánh Mokpo. Đường phố quanh đây chính là các chứng nhân lịch sử của Mokpo – thành phố cảng một thời là căn cứ thuộc địa, nơi Hàn Quốc chịu sự bóc lột của Nhật.
Ngôi mộ của ca sĩ Lee Nan-yeong dưới tán cây bằng lăng hồng trong Công viên Lee Nan-yeong ở Samhakdo.

평화광장의 여름 밤 Đêm mùa hè trên quảng trường Hòa Bình
모든 항구가 육지의 끝에 자리한다는 사실은 어떤 이에게는 그곳이 새로운 출발의 자리가 된다는 것을 의미한다. 역사는 한과 수탈의 거점이었던 목포에 새로운 꿈 하나를 제시한다.
김대중(1924~2009). 그의 이름을 모르는 한국인은 없다. 목포 앞바다 하의도의 후광리 마을에서 소작농의 아들로 태어난 그는 투옥 6년 망명 10년 가택연금 55회라는, 지난 세기 지구상에서 최고의 정치적 탄압을 받은 인물 중 한 사람이다. 1980년 신군부정권이 사형 선고를 내린 뒤 협조할 경우 살려주겠다고 회유했을 때 그는 “나도 죽는 것이 두렵지만, 지금 내가 살기 위해 타협하면 역사와 국민으로부터 영원히 죽게 된다. 그러나 나는 지금 죽어도 역사와 국민 속에 영원히 살 것이다” 라고 진술했다. 죽음 앞에서 한없이 당당했던 이 진술은 오늘날 한국인들 마음속에 깊이 간직되어 있다. 1997년 그는 대통령에 당선되었고 2000년 남북한 화해를 위해 노력한 공로로 노벨평화상을 받았다. 옛 삼학도 자리에 자리한 김대중 노벨평화상 기념관에는 인간 김대중의 고난과 영광의 자취가 한 자리에 모여 있다.

Mọi hải cảng đều nằm ở cuối thềm lục địa, và điều này có nghĩa, với ai đó đây sẽ là nơi gắn liền với một khởi điểm mới. Tại Mokpo – chính nơi từng là tâm điểm của sự bóc lột, của nỗi hận, lịch sử đã sang trang với giấc mơ mới.
Người Hàn Quốc, có lẽ không ai không biết Kim Dae-jung (1924-2009). Ông sinh ra trong một gia đình tiểu nông ở làng Hugwangri, nằm trên đảo Hauido cách bờ Mokpo không xa. Sáu năm giam cầm trong ngục, 10 năm sống lưu vong, 55 lần quản thúc tại gia; có thể nói ông là một trong những nhân vật chịu đàn áp chính trị nặng nề nhất thế giới thế kỷ qua. Năm 1980, khi bị chính quyền quân sự mới tuyên bố tử hình cùng lời đề nghị nếu hợp tác thì sống, ông đã nói “Tôi cũng sợ chết. Nhưng giây phút này nếu tôi thỏa hiệp để được sống, tôi sẽ mãi mãi là kẻ đã chết trong lịch sử, trong lòng dân. Còn nếu phải chết, dù chết tôi sẽ sống mãi trong lịch sử, trong lòng dân”. Lời tuyên bố hiên ngang của ông trước cái chết đã được ghi sâu trong lòng người dân Hàn Quốc cho đến tận hôm nay. Năm 1997, ông trở thành Tổng thống của Hàn Quốc và năm 2000, ông được nhận giải Nobel Hòa bình vì những nỗ lực trong sự hàn gắn mối quan hệ hai miền Nam-Bắc. Ở nơi xưa kia vốn là đảo Samhakdo, có Bảo tàng Kỷ niệm Giải Nobel Hòa bình Kim Dae-jung, ghi lại những năm tháng vất vả ông đã trải qua cùng những dấu ấn vinh quang của ông.

Bài viết liên quan  2026년까지 외국인 농업근로자 기숙사 20곳 건립 - Khởi công 20 ký túc xá cho người lao động nước ngoài ngành nông nghiệp

하당 평화광장의 여름 밤은 싱싱하기 이를 데 없다. 장난감 자동차를 모는 아이들, 자기들 얼굴을 카메라에 담기 바쁜 연인들, 색색의 솜사탕을 만들어 파는 상인들, 스낵바 앞에 줄을 선 사람들, 꽃 장수들, 그냥 걷거나 방파제에 걸터앉아 이야기하는 사람들, 파도소리를 들으며 낚시를 하는 사람들. 목포 시민이 모두 이 바닷가에 쏟아져 나온 것 같다. 번쩍 빛들이 쏟아지며 음악이 들려온다. 춤추는 바다분수다. 바다 가운데서 색색의 거대한 물줄기들이 음악과 함께 쏟아진다. 당신이 문득 생의 외로움을 느낄 때 밤기차를 타고 목포역에 내린다면 평화광장의 북적이는 인파 속을 걸어보는 것은 어떨지. 인간의 냄새가 배인 어떤 소음들은 외로움을 씻어내는 따뜻한 약이 될 수 있다.

Đêm mùa hè trên Quảng trường Hòa Bình ở Hadang thật mát mẻ. Từ những đứa bé lái ô tô đồ chơi, những cặp tình nhân bận bịu chụp ảnh, người bán kẹo bông với đủ màu vui mắt, người xếp hàng trước cửa hàng bán đồ ăn vặt, người bán hoa, người tản bộ, người ngồi trên bờ đê chắn sóng trò chuyện, cho đến những người câu cá, nghe pansori… Dường như tất cả người dân Mokpo đều đổ ra khu bờ biển này. Chợt những ánh đèn màu lóe sáng cùng tiếng nhạc vọng tới. Giữa biển hiện lên các tia nước khổng lồ đủ màu dập dìu nhảy múa theo nhạc. Những lúc chợt thấy cô đơn, hãy lên chuyến tàu đêm, xuống ga Mokpo và hòa mình trong dòng người đông đúc của quảng trường Hòa Bình, bạn sẽ thấy những âm thanh huyên náo quyện mồ hôi, hơi thở người qua lại bỗng như liều thuốc gột sạch nỗi cô đơn.

밤의 북적이는 평화광장을 걸으며 나는 이난영과 김대중의 시대를 생각한다. 나라를 잃고 정처 없이 방황했던 사람들이 꿈꾸었던 시간들이 지금 이 파도소리 들리는 바닷가 광장에 펼쳐지고 있다. 죽음 앞에서도 한없이 의젓했던 정치가가 끝내 만나고 싶었던 평화가 지금 눈앞에 펼쳐져 있는 것이다. 극한의 절망과 방황, 고통을 이겨내고 자신의 꿈과 싸운 인간의 향기. 항구도시 목포의 여름 밤에 별들이 쏟아진다.

Vừa dạo bước trên Quảng trường Hòa Bình huyên náo giữa đêm, tôi vừa ngẫm nghĩ về năm tháng thời Lee Nan-yeong, Kim Dae-jung. Khoảnh khắc những người dân mất nước, lang thang không nơi nương tựa vẫn từng mơ ước đang diễn ra tại chính quảng trường bên bờ biển rộn tiếng pansori này. Nền hòa bình mà chính trị gia hiên ngang đến kiêu hãnh trước cái chết vẫn từng nung nấu đang ở trước mắt tôi. Tôi nghe phảng phất mùi hương của những người con đã vượt qua nỗi tuyệt vọng, khổ đau đến tột cùng, chiến đấu vì giấc mơ của mình. Những ánh sao lấp lánh trên bầu trời đêm hè Mokpo.

당신이 문득 생의 외로움을 느낄 때 밤기차를 타고 목포역에 내린다면 평화광장의 북적이는 인파 속을 걸어보는 것은 어떨지. 인간의 냄새가 배인 어떤 소음들은 외로움을 씻어내는 따뜻한 약이 될 수 있다. Những lúc chợt thấy cô đơn, hãy lên chuyến tàu đêm, xuống ga Mokpo và hòa mình trong dòng người đông đúc của quảng trường Hòa Bình, bạn sẽ thấy những âm thanh huyên náo quyện mồ hôi, hơi thở người qua lại bỗng như liều thuốc gột sạch nỗi cô đơn.

갓바위 문화타운 역사 산책 Chuyến tản bộ tìm về lịch sử trong khu văn hóa Gatbawi
갓바위 문화타운은 목포를 처음 찾는 여행자에게 도보여행의 참 멋을 느끼게 하는 장소이다. 복합 문화예술 단지인 이곳에는 박물관과 기념관, 갤러리들이 모여 있다. 목포자연사박물관, 목포생활도자박물관, 해양유물전시관이 딸린 국립해양문화재연구소, 목포문학관, 남농기념관, 목포문예회관, 중요무형문화재전수교육관이 한 자리에 모여 있다. 한 사흘쯤 천천히 파도소리를 들으며 이 문화타운을 답사하는 것만으로 이 도시의 역사와 함께 깊어지는 당신 생의 역사를 느낄 수 있을 것이다.

Khách du lịch lần đầu đến Mokpo đều thích thú khi tản bộ du ngoạn quanh Khu phức hợp Văn hóa Nghệ thuật Gatbawi (Đá hình nón). Nơi đây tập trung nhiều viện bảo tàng, phòng triển lãm, nhà trưng bày kỷ niệm như: Viện Bảo tàng Thiên nhiên Mokpo, Viện Bảo tàng Sản phẩm Gốm Sinh hoạt, Phòng Triển lãm Di vật Biển nằm trong khuôn viên Viện Nghiên cứu Di sản Văn hóa biển Quốc gia, Bảo tàng Văn học Mokpo, Nhà trưng bày kỷ niệm Namnong, Nhà Văn hóa Nghệ thuật Mokpo, Trung tâm Học tập và Giáo dục các Di sản Văn hóa Phi vật thể trọng yếu. Bốn ngày để lòng thanh thản cùng pansori, tham quan Gatbawi, bạn sẽ có dịp cảm nhận lại chính mình trong dòng lịch sử của thành phố này

남농기념관은 19세기에서 20세기 후반에 이르는 한국의 남종 문인화를 체계적으로 감상할 수 있는 미술관이다. 남농 허건(許楗1908~1987)은 추사 김정희로부터 “압록강 동쪽으로 최고의 기품”이라는 평가를 받은 남종화의 대가 소치(小痴) 허련(許鍊 1808~1893)의 손자로서 선조의 화풍을 이어 받았다. 이 미술관에는 허련과 부친인 미산(米山) 허형(許瀅)의 작품들, 제자들의 작품들이 함께 전시되어 있는데 나는 그 중 남농의 아우 허림(許林 1917 ~1942)의 작품을 제일 좋아한다. 스물다섯의 나이로 요절한 그는 이곳에 <닭 파는 노인>(1940)과 <맥구(麥邱)>(1941) 두 작품을 남기고 있는데 식민지 시절 한국의 보통 사람들의 삶과 산하가 따사로운 빛과 선으로 묘사되어 있다. 한 예술가의 작품은 그가 응시하는 시선의 깊이에 따라 그 기품이 결정된다. 이 두 작품을 보는 것만으로 목포 여행이 의미 있다고 생각한 시간이 내게 있었다. 근대 서양화의 기법과 조선 문인화의 정신이 함께 빚어낸 전환기 한국화의 한 절정이라 할 것이다.

Nhà Trưng bày Kỷ niệm Namnong là một phòng tranh nơi bạn có thể thưởng thức một cách có hệ thống các tác phẩm hội họa Nam tông Hàn Quốc được sáng tác khoảng thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20. Namnong Heo Geon (1908-1987), cháu trai của chuyên gia bậc thầy trường phái Nam tông Sochi Heo Ryeon (1808- 1893), được xem là người kế thừa phong cách hội họa cha ông. Ông đã được Chusa Kim Jeong-hui đánh giá mang “khí chất nhất bờ đông sông Amnok”. Ở phòng tranh này, bạn có thể xem các tác phẩm của Heo Ryeon, của cha ông – Misan Heo Hyeong, hay các đệ tử của ông. Trong các tác phẩm được trưng bày ở đây, tôi thích nhất tác phẩm của Heo Rim (1917-1942) – em trai Namnong. Qua đời sớm ở tuổi 25, Heo Rim đã để lại hai tác phẩm “Ông lão bán gà” (1940) và “Đồi lúa mạch” (1941). Bằng đường nét mềm mại, tông ánh sáng ấm, ông đã miêu tả sông núi, cuộc sống thường nhật của người Hàn thời thực dân. Khí chất một tác phẩm vốn được quyết định bởi chiều sâu trong cách nhìn thế giới của người vẽ. Tôi tự nhủ chỉ hai bức tranh này đã đủ đem lại ý nghĩa cho chuyến đi. Có thể nói đây là đỉnh cao của hội họa Hàn Quốc thời kỳ quá độ trong sự gặp gỡ giữa kỹ thuật hội họa phương Tây cận đại và tinh thần văn nhân Joseon.

Bài viết liên quan  어느덧 익숙해지고 있는 2층 한옥 - Ngôi nhà hanok hai tầng quen thuộc từ lúc nào

모험과 여행을 좋아하는 이라면 국립해양문화재연구소의 전시관에 꼭 들러야 한다. 제2전시실에는 1323년 목포 앞 신안 바다에 좌초된 중국 원나라 무역선(신안선이라 부른다)의 인양 당시 모습이 보존되어 있고 그 시대 뱃사람들의 삶을 유추해 볼 수 있는 출토품들도 전시되어 있다. 그 옆 제3전시실에서는 세계의 배 진화 과정을 돌아볼 수 있다. 15세기 대항해시대 여행자들의 자취를 살필 수 있는 것도 큰 기쁨이다. 명나라 3대 황제인 영락제(1360-1424) 시절의 대항해가인 정화(鄭和)는 62척의 대선단을 이끌고 세계 원정을 했다. 그는 1405년부터1433년까지 7차례에 걸쳐 아시아, 중동, 아프리카의 여러 나라에 이르렀으며 고령에도 불구하고 항해를 지속하다 항해 중 사망했다. 가히 대항해가 다운 죽음이라 할 것이다. 우리 모두 인생이라는 이름의 그물을 하나씩 들고 있다. 거대하고 신비한, 아무도 이른 적 없는 바다에 그 그물을 던지고 싶은 모험가의 꿈은 어느 시절에도 존중 받아 마땅한 것이다

Nếu là người thích phiêu lưu và du lịch, bạn nhất định phải ghé qua Viện Nghiên cứu Di sản Văn hóa biển Quốc gia. Ở phòng trưng bày số 2 có chiếc thương thuyền đầu tiên của nhà Nguyên Trung Quốc bị đắm sau khi đụng phải đá ngầm ở vùng biển Sinan gần Mokpo năm 1323. Chiếc thuyền được trưng bày nguyên dạng như khi trục vớt cùng các hiện vật giúp ta phần nào hiểu được cuộc sống của những thuyền nhân thời đó. Ở phòng số 3 bên cạnh, bạn có thể điểm lại lịch sử phát triển của tàu thuyền thế giới cùng dấu tích của những nhà phiêu lưu thám hiểm thời đại khám phá thế kỷ 15. Thời hoàng đế Yong Le (Vĩnh Lạc, 1360- 1424) – vị hoàng đế thứ ba của nhà Minh Trung Quốc, có nhà hàng hải Zheng He (Trịnh Hòa, 1371-1433) viễn chinh khắp thế giới cùng đoàn tàu 62 chiếc. Trong các năm từ 1405 đến 1433, ông đã thực hiện bảy cuộc viễn chinh đến nhiều nước Châu Á, Trung Đông và Châu Phi. Mặc dù tuổi cao, ông vẫn miệt mài với các chuyến đi biển và cuối cùng qua đời trong một chuyến đi như thế. Có thể nói cái chết xứng danh một nhà hàng hải. Mỗi chúng ta, ai cũng có chiếc lưới mang tên cuộc đời. Và giấc mơ của nhà thám hiểm được tung chiếc lưới ấy giữa vùng biển rộng lớn, kỳ bí, nơi chưa từng ai đặt chân đến luôn là giấc mơ đáng trân trọng ở mọi thời đại.

The Mokpo Harbor Festival has been held every summer since 2006 in Peace Plaza and the surrounding Samhakdo area.

목포가 낳은 네 문인 Bốn văn nhân của Mokpo
생활도자박물관을 지나 걸음을 목포문학관으로 옮긴다. 목포는 한국이 자랑할 만한 문인들을 많이 배출했다. 목포문학관에서는 소설가 박화성(1904-1988), 희곡작가 차범석(1924-2006)과 김우진(1897-1926), 불문학자이자 문학평론가 김현(1942-1990), 이 네 문인의 삶의 행적들이 방문객을 맞이한다. 문학관이 문을 닫는 시간까지 나는 김현의 전시관을 배회했다. 김현은 생전에 240여 편에 달하는 평론과 저술을 남겼는데 시인이나 소설가가 아닌 평론가의 글을 한국인이 사랑한 데는 이유가 있다. 그는 텍스트를 열렬히 사랑한 평론가였다. 텍스트를 분석의 대상이 아닌 지고한 열애의 대상으로 대했다. 자신의 방대한 독서량 속으로 텍스트를 이끌고 들어가 그 텍스트가 꾸는 꿈이 무엇인가 밝혀내는 데 그의 진정성이 있었다.

Qua Viện Bảo tàng Sản phẩm Gốm Sinh hoạt, tôi dừng bước ở Bảo tàng Văn học Mokpo. Có thể nói Mokpo là nơi đã sản sinh nhiều văn nhân đáng tự hào của Hàn Quốc. Dấu tích về bốn văn nhân lớn được trưng bày nơi đây như níu chân khách tham quan. Họ là tiểu thuyết gia Park Hwa-seong (1904-1988), nhà soạn kịch Cha Beom-seok (1924-2006) và Kim U-jin (1897-1926), nhà nghiên cứu văn học Pháp kiêm bình luận văn học Kim Hyeon (1942-1990). Mãi đến giờ đóng cửa, tôi vẫn không thể dứt ra khỏi phòng trưng bày Kim Hyeon. Sinh thời, Kim Hyeon đã để lại hơn 240 tác phẩm sáng tác và bình luận. Ông không phải nhà thơ, cũng không phải nhà văn nhưng điều gì đã khiến người Hàn Quốc yêu mến những tác phẩm của ông đến thế. Ông là nhà bình luận văn học mang trong mình tình yêu sâu sắc với tác phẩm. Với ông, văn chương không phải đối tượng để phân tích bình phẩm mà là đối tượng để yêu, yêu cuồng nhiệt. Ông đưa tác phẩm bình luận vào thế giới sách đồ sộ của mình, đào sâu để hiểu giấc mơ tác phẩm ấy đeo đuổi, và ở đó ông cũng tìm thấy những gì chân thật nhất của chính mình.

Các trưng bày về Kim Hyeon (1942-1990), nhà bình luận văn học yêu các tác phẩm, tại Bảo tàng

“자기에게서 멀리 떨어질수록 자기에게로 가까이 간다. 그 모순이야말로 인간존재의 비밀을 쥐고 있다.” (˂김현 예술기행˃, 1975)
“Càng cách xa, ta sẽ càng gần mình hơn. Chính sự mâu thuẫn ấy đang nắm giữ bí mật tồn tại của con người” (“Nhật ký hành trình nghệ thuật Kim Hyeon”, 1975)
“잘못 읽는다는 것은 다른 원칙에 의해서 그것을 읽는다는 뜻이다. 그것은 오히려 새로운 것을 구축케 하는 독법이다.” (˂인간의 고향을 찾아서˃, 1975)
“ ‘Đọc sai’ có nghĩa người ta đọc đối tượng ấy theo một nguyên tắc khác. Đó trái lại là một cách đọc sẽ tạo ra nhiều điều mới mẻ.” (“Tìm về cố hương của loài người”, 1975)
“또 다시 좋은 세상이 오고 있다고 풍문은 전하고 있다 과연 좋은 세상이 올 것인가? 그것은 헛된 바람이 아닐까? 나는 주저하며 세계를 분석하고 해석한다.” (˂분석과 해석˃, 1988)
“Khi người ta nói rằng thế giới tươi đẹp đang trở lại, điều ấy phải chăng có nghĩa thế giới ấy sẽ trở lại? Hay đó thật ra chỉ là một làn gió vô nghĩa? Trong lòng đầy hồ nghi, tôi phân tích, lý giải thế giới” (“Phân tích và lý giải”, 1988)

역사가 숨 쉬는 공간을 배회하는 것은 여행이 주는 특별한 선물이다. 가끔은 생이 뮤즈로 다가올 때가 있다. 목포는 내게 그런 공간이다. Được lang thang giữa nơi có hơi thở lịch sử chính là món quà đặc biệt của những chuyến đi. Thi thoảng, có những lúc cuộc đời trở thành niềm cảm hứng. Với tôi, Mokpo chính là một nơi như thế.

Mọi hải cảng đều nằm ở cuối thềm lục địa, và điều này có nghĩa với ai đó, đây sẽ là nơi gắn liền.

곽재구 (Gwak Jae-gu, 郭在九) 시인
Ảnh: Ahn Hong-beom
Dịch: Phan Thị Hồng Hà

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here