한옥, 처마 끝의 손님 – Hanok, vị khách dưới mái hiên

0
550

요즘 한옥은 대체로 ‘문화재’로 인식된다. 그러나 최근 한옥의 가치를 되살리고 대중화하기 위한 방안들이 활발히 모색되고 있다. 특히 고택에서 하룻밤 묵어가는 한옥스테이의 인기가 높아지고 있는데, 한옥에 대한 향수를 간직한 중장년층뿐 아니라 젊은 세대에게도 큰 호응을 얻고 있다. 경상북도 안동에 위치한 ‘구름에 리조트’도 그런 곳 중 하나다.

Ngày nay, hanok thường được biết đến là một “di sản văn hóa”. Tuy nhiên, rất nhiều phương án đang được tìm tòi, nghiên cứu với mục đích làm sống lại những giá trị của hanok và lan tỏa chúng đến mọi người. Đặc biệt, hanok stay – dịch vụ trải nghiệm nghỉ qua đêm trong nhà cổ – đang ngày càng phổ biến, nhận được sự hưởng ứng đông đảo không chỉ từ những người ở độ tuổi trung niên có hoài niệm về hanok mà cả những bạn trẻ. Một trong những địa điểm cung cấp dịch vụ này chính là khu nghỉ dưỡng Gurume tọa lạc tại thành phố Andong, tỉnh Gyeongsangbuk.

안동 구름에 리조트 내 서운정(栖雲亭) 툇마루에 앉으면 낮은 돌담 너머로 원경을 즐길 수 있다. 조선 중기 성리학자 퇴계 이황의 9대손인 문신 이언순(李彦淳)이 1840년대에 지은 정자이며, 2008년 현재 위치로 이건하였다. Ngồi ở toetmaru của Tê Vân Đình (tạm dịch: ngôi nhà trên mây) ở khu nghỉ dưỡng Gurume, Andong có thể tận hưởng khung cảnh xa xa đằng sau bức tường đá thấp. Nơi đây từng là vọng lâu được xây vào những năm 1840 bởi quan văn Yi Eon-sun (Lý Ngạn Thuần) – hậu duệ đời thứ 9 của Toegye Yi Hwang (Thoái Khê Lý Hoảng), một học giả của Tân Nho giáo vào giữa triều đại Joseon, sau đó được di dời đến vị trí hiện tại vào năm 2008.
안동 구름에 리조트 내 서운정(栖雲亭) 툇마루에 앉으면 낮은 돌담 너머로 원경을 즐길 수 있다. 조선 중기 성리학자 퇴계 이황의 9대손인 문신 이언순(李彦淳)이 1840년대에 지은 정자이며, 2008년 현재 위치로 이건하였다. Ngồi ở toetmaru của Tê Vân Đình (tạm dịch: ngôi nhà trên mây) ở khu nghỉ dưỡng Gurume, Andong có thể tận hưởng khung cảnh xa xa đằng sau bức tường đá thấp. Nơi đây từng là vọng lâu được xây vào những năm 1840 bởi quan văn Yi Eon-sun (Lý Ngạn Thuần) – hậu duệ đời thứ 9 của Toegye Yi Hwang (Thoái Khê Lý Hoảng), một học giả của Tân Nho giáo vào giữa triều đại Joseon, sau đó được di dời đến vị trí hiện tại vào năm 2008.

지난가을, 오래된 한옥을 하룻밤 경험할 기회가 생겼다. 추석이 지난 지 얼마 되지 않았고, 하늘은 하루가 다르게 높아지는 중이었다. 한옥 마루에 앉아 가을 정취를 한껏 즐길 생각에 빠져 지내다 보니 더디기만 하던 시간도 훌쩍 흘러 예정된 날짜가 다가와 있었다.

Mùa thu năm ngoái, tôi đã có cơ hội nghỉ qua đêm trong một căn nhà hanok lâu đời. Tết Trung thu vừa qua chưa lâu, bầu trời càng ngày càng cao vời vợi. Trong lúc tôi còn mãi tưởng tượng đến cảnh ngồi trên sàn nhà hanok và tận hưởng khí trời mùa thu, dòng thời gian vốn chậm rãi đã thấm thoắt trôi đi, thoáng cái đã đến gần ngày hẹn.

한옥에서 하룻밤을 보내기로 한 순간부터 나는 오래된 기억을 더듬고 있었다. 아주 어렸을 때 외갓집에서 잠시 지낸 적이 있었다. 기와를 얹은 화려한 집은 아니었던 것 같고, 그렇다고 아주 단출한 초가집도 아니었다. 외삼촌에게 안부를 핑계로 전화해서 물어보니 지붕에 초가를 얹긴 했어도 절을 지을 때 쓰던 기둥이나 대들보 같은 자재들이 그대로 사용되었더란다. 내 기억이 틀리지 않았다는 걸 확인하니 비로소 몇 가지 풍경이 자세히 그려졌다.

Từ lúc quyết định sẽ nghỉ một đêm ở hanok, tôi đã bắt đầu lần tìm về những ký ức xưa cũ. Khi còn rất nhỏ, đã có một khoảng thời gian ngắn tôi sống tại nhà ngoại. Nó có vẻ không giống một căn nhà mái ngói sang trọng, nhưng cũng chẳng phải là ngôi nhà tranh quá đơn sơ. Lấy cớ hỏi thăm, tôi gọi điện thoại hỏi cậu mình thì biết được, dù mái lợp bằng tranh nhưng căn nhà vẫn được kết cấu bằng cột và xà ngang như những ngôi chùa. Khi đã chắc chắn mình nhớ chính xác, tôi dần dần hình dung lại chi tiết hơn một vài khung cảnh.

외갓집 대청은 반질반질하게 윤이 날 정도로 잘 길들여져 양말을 신고 뛰어다니면 얼음 위에 선 듯 긴장되기도 했다. 머리를 들어 처마 아래를 보면 제비가 둥지를 틀어놓았는데, 늘 조용하게 숨어 있던 새끼들이 어미가 먹이를 물어오기만 하면 일제히 둥지 바깥으로 주둥이를 내밀고 시끄럽게 졸라댔다. 밥을 지을 때면 장작을 끊임없이 삼키던 아궁이도 떠올랐다. 밥 짓는 장면과 외양간에서 느릿느릿 여물을 씹던 소가 함께 그려지는 걸 보니 소의 끼니를 먼저 챙겼던 것도 같다. 이렇게 집 바깥의 이미지들은 더러 떠오르는데 집 내부의 기억은 희미하고 모호했다.

Sàn nhà ở đại sảnh bị bào mòn đến nhẵn thín và bóng loáng, nếu mang tất mà chạy trên đó sẽ cảm thấy hồi hộp như thể chạy trên băng. Ngẩng đầu nhìn lên phía dưới mái hiên sẽ bắt gặp một chiếc tổ én bao bọc những chú chim non lúc nào cũng yên lặng ẩn nấp, nhưng hễ chim mẹ mang thức ăn về là chúng sẽ đồng loạt chĩa mỏ ra ngoài ầm ĩ đòi ăn. Hình ảnh bếp lò không ngừng “nuốt” những thanh củi mỗi khi nấu cơm cũng hiện lên trong tâm trí tôi, đan xen với hình ảnh con bò đang chậm chạp nhai cỏ khô trong chuồng. Có vẻ bữa ăn của con bò được chuẩn bị trước cả bữa cơm gia đình. Cứ như thế, những hình ảnh bên ngoài ngôi nhà thi thoảng hiện về trong tâm trí tôi, nhưng ký ức về bên trong ngôi nhà lại nhạt nhòa và mơ hồ.

일곱 채의 고택들 – Bảy ngôi nhà cổ
오후 2시가 조금 안 되었을 때 안동에 도착해 점심을 서둘러 해결하고 다시 차를 몰았다. 구름에(GURUME) 리조트로 가는 길에 잠시 옆길로 빠지면 가까이에 큰 규모의 안동댐이 있어서 잠시라도 들르고 싶었다. 몇 곳의 관광 포인트를 시찰하듯 둘러보고 나오니 입실 시간이 딱 되었다. 나는 주차장에 차를 대고 미리 안내받은 전화번호로 도착을 알렸다. 그러자 어디선가 골프장에서 돌아다니는 것과 비슷하게 생긴 전기 카트 한 대가 나타났다.

Đến thành phố Andong khi sắp 2 giờ chiều, tôi vội vàng ăn trưa rồi tiếp tục lái xe. Trên đường đến khu nghỉ dưỡng Gurume, vì tiện đường nên tôi tranh thủ ghé thăm đập Andong, một con đập rất lớn ở gần đó. Sau một vòng lái xe nhìn ngắm vài địa điểm du lịch như thể đang đi thị sát, cuối cùng cũng đã đến giờ nhận phòng. Tôi đưa xe vào bãi đậu rồi gọi điện cho khu nghỉ dưỡng thông báo mình đã đến nơi.. Không lâu sau, một chiếc xe điện giống như loại xe thường chạy trên sân gôn từ đâu đó xuất hiện.

Bài viết liên quan  [Đọc - Dịch] Tổng hợp các kiến thức giúp nuôi dạy con tốt từ người Hàn Quốc

직원은 내 짐을 받아 싣고 뒷좌석에 나를 태운 뒤 리조트를 한 바퀴 돌며 이곳에 대한 설명을 해주었다. 골짜기의 비탈을 따라 17~19세기 초에 지어진 고택 일곱 채와 신축 한옥 서너 채가 자리 잡고 있었는데, 고택들은 원래부터 이곳에 자리한 게 아니라 50년 전 안동댐이 건설될 때 댐이 완공되면 수몰될 처지에 놓인 집들을 옮겨 놓은 것이었다. 모든 자재들을 잘 분리해 놓으면 원래대로 맞추어 다시 지을 수 있는 게 한옥의 큰 특징 중 하나인데, 그대로 다시 짓지 않더라도 재목들을 보관해 놓으면 다른 집을 지을 때 재활용할 수 있다. 나는 눈앞의 건물들이 아주 조심스럽게 분해되었다가 이곳으로 옮겨져 재구성되는 과정을 상상해 보았다. 기회가 된다면 그 마법 같은 일을 언젠가는 꼭 직접 보고 싶었다.

Nhân viên phục vụ chất hành lí của tôi lên xe, mời tôi ngồi ở ghế sau và bắt đầu thuyết minh về khu nghỉ dưỡng trong lúc đưa tôi đi tham quan một vòng nơi này. Dọc theo con dốc của thung lũng có bảy ngôi nhà hanok cổ được xây từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX và ba, bốn ngôi nhà hanok mới. Những ngôi nhà cổ vốn dĩ không nằm ở đây, nhưng khi đập Andong được xây dựng vào 50 năm trước, người ta e ngại sau khi đập được hoàn thành thì những ngôi nhà này sẽ bị nhấn chìm trong nước nên đã di dời chúng đến vị trí hiện tại. Một trong những đặc trưng lớn của hanok là có thể được lắp ráp lại như ban đầu nếu khâu tháo dỡ vật liệu được làm cẩn thận, thậm chí phần gỗ khi được bảo quản tốt thì vẫn có thể tái sử dụng để xây nhà mới. Tôi tự hình dung ra toàn bộ quá trình những ngôi nhà ở trước mắt được tháo dỡ một cách cẩn trọng, vận chuyển đến đây và xây lắp để trở thành như hiện tại. Nếu có cơ hội, tôi rất muốn một lúc nào đó được tận mắt chứng kiến công việc tựa như phép thuật kì diệu này.

투어를 마치고 다시 골짜기 아래로 내려와 내가 묵을 곳에 도착했다. ‘계남고택(溪南故宅)’이란 이름을 가진 집이었다. 울타리 높이의 사립문 안쪽으로 평평하고 정갈하게 손질된 바깥마당이 펼쳐졌고, 마당을 가로질러 커다란 대문을 열어젖히자 아담한 안마당이 눈에 들어왔다. 마당을 가운데 두고 사랑채와 안채와 중간방이 미음 자로 배치돼 있었다. 나는 사랑채에 묵기로 돼 있었고, 안채는 벌써 어느 가족이 차지하고 있었으며, 중간방은 비어 있었다. 과거에 바깥주인이 거처하며 손님을 맞았던 사랑채는 대개 큰 방과 대청, 작은 방이 기역 자 형태로 연결되어 있는 독립 공간인데 이곳 또한 그러한 구조였다. 이 집에 살았던 남성들은 이곳에서 손님들을 접대하며 서로의 안부를 묻고 마을의 크고 작은 일을 의논했을 것이다. 항상 외부인에게 노출되던 곳이라 그런지 집 전체에서 가장 생동감이 맴돌고 있는 것 같았다. 나는 짐을 풀어놓고 아직 환할 때 집의 외부를 자세히 구경하고 싶어 바깥으로 나왔다.

Sau khi kết thúc chuyến tham quan, chúng tôi di chuyển xuống thung lũng và đến nơi mà tôi sẽ nghỉ lại qua đêm. Đó là ngôi nhà mang tên “Khê Nam Cố Trạch” (tạm dịch: căn nhà cổ ở phía nam con suối). Đằng sau cánh cổng được đan bằng cành cây cao tầm hàng rào là một khoảng sân ngoài đã được sửa sang bằng phẳng và sạch sẽ; băng qua hết khoảng sân này và mở cửa lớn ra sẽ thấy tiếp một khoảnh sân trong nhỏ nhắn. Lấy sân trong làm trung tâm, các gian nhà sarangchae, anchae và phòng giữa được bố trí xung quanh theo hình dạng chữ ㅁ (mi-eum). Tôi được sắp xếp nghỉ ngơi tại sarangchae, trong khi anchae đã có một gia đình đang ở và phòng giữa vẫn còn trống. Sarangchae vốn là nơi chủ nhà dùng để sinh hoạt và tiếp khách. Giống như các hanok khác, sarangchae ở đây cũng là không gian độc lập, bao gồm một phòng lớn, đại sảnh và một phòng nhỏ liên kết với nhau theo chữ ㄱ (gi-yeok). Tại không gian này, những người đàn ông sinh sống trong nhà sẽ tiếp đãi khách, hỏi thăm cũng như cùng trao đổi về các việc lớn nhỏ trong làng. Có lẽ vì là nơi người ngoài thường xuyên lui tới nên so với toàn bộ căn nhà, sarangchae mang lại nhiều cảm giác sinh động hơn. Sau khi cất hành lý, tôi muốn nhìn ngắm thật kỹ ngôi nhà lúc trời còn sáng nên đã ra ngoài đi dạo.

지붕과 처마의 모양은 단정하되 심심하지 않았고, 벽이며 문에 새겨진 무늬는 오묘하면서도 요란하지 않았다. 그 옛날 조상들의 정신과 마음에 무엇이 있어 이런 집을 지어냈을지 새삼 궁금했다. 나는 조금 멀리 떨어져서 전체를 바라보고 싶었다. 이곳저곳에 서 보다가 어느 지점에서 최고의 풍경을 발견했다. 구절초가 무리 지어 피어 있는 너머로 집의 옆면이 펼쳐진 모습이었다. 집은 고귀한 자태를 뽐내면서도 흔하디흔한 가을 들꽃들을 전혀 무안하게 하지 않았다. 청명한 하늘과 푸른 산과 부드러운 바람이 그러하듯, 들꽃이 한철이나마 자기 모습을 마음껏 뽐내볼 수 있도록 담담한 배경이 되어 주었다. 내가 만일 화가라면 이 풍경을 그리지 않고는 못 견딜 것 같았다.

Hình dạng của mái và hiên nhà mộc mạc nhưng không nhàm chán, họa tiết chạm khắc trên tường và cửa rất tỉ mỉ mà không hề rối mắt. Tôi bỗng dưng cảm thấy tò mò rằng điều gì trong tâm trí, tinh thần của ông cha ta đã khiến họ xây nên những ngôi nhà như thế này. Tôi lùi ra xa hơn một chút vì muốn nhìn thấy toàn cảnh. Trong lúc đứng chỗ này chỗ kia để ngắm nhìn, tôi đã tìm ra vị trí đứng để có thể nhìn thấy khung cảnh đẹp nhất. Đó là hình ảnh mặt bên của căn nhà với những bông hoa cúc nở thành từng bụi. Ngôi nhà tuy toát lên vẻ cao quý nhưng vẫn không thể khiến những bông hoa đồng nội mùa thu phải cảm thấy e thẹn. Giống như bầu trời trong trẻo, ngọn núi xanh biếc và cơn gió nhẹ nhàng, ngôi nhà đã trở thành cảnh nền trầm tĩnh để bông hoa đồng nội có thể mặc sức khoe sắc. Nếu là một họa sĩ, có lẽ tôi đã không thể cầm lòng được mà nhấc cọ vẽ lại khung cảnh đẹp đẽ này.

Bài viết liên quan  다양하게 확장되는 한옥의 용도 - Đa dạng hóa công năng kiến trúc Hanok

땀이 살짝 날 정도로 돌아다니다 집으로 돌아왔다. 나는 문을 열어놓은 채 대청에 잠시 앉아보았다. 툇마루가 복도라면 대청은 거실 격이었다. 외갓집에서 지내던 때도 대청을 좋아했던 것 같다. 여름에는 넓은 나무 바닥에서 뒹굴며 더위도 식히고 나무 냄새도 맡았던 기억이 났다. 이제 기온이 떨어지고 있는 시기라 땀을 식히기 위해 사방의 문을 틀 필요까진 없었다. 열어 놓은 출입문 하나로도 충분했다. 문 앞에는 마루가 둘러져 있었고, 그 너머로 마당과 울타리와 리조트의 정원이 그림처럼 펼쳐졌다. 한 줄기 바람이 문밖의 마루에서 맴돌다가 대청을 훑고 나갔다.

Sau khi đi loanh quanh đến thấm mệt, tôi trở vào trong nhà, để cửa mở rồi ngồi ở đại sảnh một lúc. Nếu xem toetmarulà hành lang thì đại sảnh không khác gì một phòng khách. Hình như tôi đã rất thích không gian đại sảnh khi còn sống ở nhà ngoại. Ký ức về những ngày hè vừa nằm dài trên chiếc sàn gỗ rộng để làm dịu cái nóng, vừa ngửi mùi hương của gỗ hiện lên trong tâm trí. Mùa này trời đang mát dần nên cũng chẳng cần phải mở hết các cửa từ mọi hướng để làm ráo mồ hôi, chỉ cần để mở cửa ra vào là đủ. Bên ngoài cửa là hành lang bao quanh, xa hơn nữa là khoảng sân, hàng rào và vườn cây của khu nghỉ dưỡng trải ra như thể một bức tranh. Từ hành lang ngoài cửa, một cơn gió thổi ngang qua đại sảnh.

1800년대 지어진 것으로 추정되는 계남(溪南)고택은 안동 지방의 전형적인 상류 주택 양식인 ㅁ자 형 구조로 이루어져 있다. 대문 오른쪽이 사랑채이고, 안마당 안쪽에 대청이 꽤 넓은 안채가 자리한다. 서운정을 지은 이언순의 부친 이귀용(李龜容)이 마을에 터를 잡고 지은 종택으로 이 집 또한 서운정과 같은 시기에 현재 위치로 옮겨졌다. Ước đoán xây dựng vào những năm 1800, Khê Nam Cố Trạch có cấu trúc theo hình dạng chữ ㅁ (mi-eum) và là kiểu nhà của giới thượng lưu điển hình ở khu vực Andong. Sarangchae nằm ở bên phải cổng chính, phía sau khoảng sân trong là anchae với phần đại sảnh khá rộng. Đây là ngôi nhà được xây bởi Yi Gwi-yong (Lý Quân Dung) – phụ thân của Yi Eon-sun (người xây Tê Vân Đình) và là nhà chính của gia tộc; được di dời đến địa điểm hiện tại đồng thời với Tê Vân Đình.
1800년대 지어진 것으로 추정되는 계남(溪南)고택은 안동 지방의 전형적인 상류 주택 양식인 ㅁ자 형 구조로 이루어져 있다. 대문 오른쪽이 사랑채이고, 안마당 안쪽에 대청이 꽤 넓은 안채가 자리한다. 서운정을 지은 이언순의 부친 이귀용(李龜容)이 마을에 터를 잡고 지은 종택으로 이 집 또한 서운정과 같은 시기에 현재 위치로 옮겨졌다. Ước đoán xây dựng vào những năm 1800, Khê Nam Cố Trạch có cấu trúc theo hình dạng chữ ㅁ (mi-eum) và là kiểu nhà của giới thượng lưu điển hình ở khu vực Andong. Sarangchae nằm ở bên phải cổng chính, phía sau khoảng sân trong là anchae với phần đại sảnh khá rộng. Đây là ngôi nhà được xây bởi Yi Gwi-yong (Lý Quân Dung) – phụ thân của Yi Eon-sun (người xây Tê Vân Đình) và là nhà chính của gia tộc; được di dời đến địa điểm hiện tại đồng thời với Tê Vân Đình.

이불의 무게감 – Sức nặng của tấm chăn
해가 지려 하는 것을 보고 리조트 밖으로 나가 저녁을 먹고 왔다. 기온이 많이 떨어질 것을 대비해서 온도 조절기를 미리 틀어 놓았더니 돌아왔을 땐 내부가 은은하게 따뜻해져 있었다. 바닥을 달궈 집 전체를 데우는 온돌 특유의 난방 시스템 덕이었다. 배도 부른데 발밑에서 온기가 올라오니 하루의 피로가 이제야 몰려들었다. 나는 이불도 깔지 않은 맨바닥에 누워보았다. 서울의 집에서는 좀처럼 바닥에 몸을 댈 일이 없었다. 거실에는 소파가 있고 방에는 침대가 있기 때문이다. 그러므로 나는 늘 발바닥만큼의 좁은 면적으로만 내 집과 몸을 맞대고 있었다. 그에 비해 한옥은 온몸으로 만나는 공간이었다. 나는 바닥에 누워 엉덩이로, 등으로, 뒤통수로 전해지는 느낌을 헤아려 봤다. 한 겹 장판 아래는 고운 흙으로 다져 덮은 구들이 있었고, 기분 탓인지는 몰라도 흙이 뿜어내는 자연의 기운이 올라오고 있는 것도 같았다.

Khi thấy mặt trời sắp lặn, tôi ra khỏi khu nghỉ dưỡng đi ăn rồi về. Đề phòng trời trở lạnh, tôi đã bật sẵn lò sưởi nên khi quay lại cả gian nhà đã ấm hẳn lên. Đó là nhờ hệ thống sưởi độc đáo ondol (hay còn gọi là gudeul) đã sưởi ấm toàn bộ căn nhà bằng cách làm nóng sàn nhà. Bụng đã no nhưng khi sức nóng tỏa lên từ lòng bàn chân, tất cả cảm giác mệt mỏi của một ngày dường như ùa về. Tôi còn chẳng thèm trải nệm ra mà nằm hẳn trên nền nhà. Ở nhà mình tại Seoul, tôi rất ít khi nằm trên sàn nhà, vì trong phòng khách có sô-pha và trong phòng ngủ có giường. Vì thế, diện tích tiếp xúc giữa cơ thể tôi với ngôi nhà chỉ bé bằng lòng bàn chân. Ngược lại, hanok là không gian mà tôi có thể chạm vào bằng toàn bộ thân thể. Nằm trên sàn nhà, tôi trải nghiệm được những cảm giác đang được truyền đến cơ thể thông qua mông, lưng và sau gáy. Bên dưới lớp lót sàn là hệ thống sưởi ondol được đắp từ đất mịn. Không biết có phải tại vì tâm trạng của tôi hay không mà dường như một nguồn năng lượng của tự nhiên tỏa ra từ đất đang dâng trào nơi đây.

몸이 아예 늘어져 버리기 전에 씻기로 했다. 세면도구를 챙겨 샤워실에 들어서니 수준 있는 호텔의 그것과 다르지 않았다. 과거에서 갑자기 현대로 시간 이동을 한 것 같은 기분마저 들면서 잠시 어리둥절해지기도 했다. 부드럽게 조절되는 온수와 충분한 수압은 하루의 피로를 말끔히 씻어내 주었다. 방으로 돌아와 몸을 말린 다음 이부자리부터 펼쳤다. 혼자 묵는다고 얘기해 뒀는데도 두꺼운 요가 두 장이나 있었다. 아마도 딱딱한 바닥이 불편할까 봐 배려해 놓은 듯했다. 침구류는 모두 광목천 안에 목화솜을 넣어 전통 방식으로 만든 것이었다. 까슬까슬한 촉감으로 묵직하게 몸을 누르는 이불의 무게감이 좋았다. 내가 이불을 덮고 있는 게 아니라 이불이 나를 꽉 안아 주고 있는 것 같았다. 그때 희미하던 기억이 되살아나기 시작했다. 어릴 적 외갓집의 내부 모습이었다.

Tôi quyết định đi tắm trước khi cơ thể hoàn toàn rã rời. Lấy đồ vệ sinh cá nhân đi vào phòng tắm, tôi chợt nhận ra nơi này không khác gì khách sạn cao cấp. Một cảm giác kì lạ xuất hiện, như thể tôi vừa đột ngột vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại, khiến tôi lúng túng trong chốc lát. Nước nóng nhẹ, áp lực nước vừa đủ đã giúp tôi xua tan hoàn toàn những mệt mỏi sau một ngày dài. Sau khi trở lại phòng và lau khô người, tôi bắt đầu trải chăn nệm ra. Dù đã thông báo tôi sẽ ở một mình nhưng họ vẫn chuẩn bị những hai tấm nệm dày. Có lẽ họ lo nền nhà cứng sẽ khiến tôi cảm thấy bất tiện nên đã chuẩn bị chăng? Tất cả chăn gối đều được làm theo cách truyền thống, nhồi bông vào bên trong lớp vải cô-tông. Tôi thích cảm giác nặng trĩu và thô ráp của tấm chăn đắp trên cơ thể mình. Dường như không phải tôi đắp chăn mà chiếc chăn đang ôm chặt lấy tôi vậy. Đây cũng là lúc những ký ức nhạt nhòa bắt đầu ùa về. Đó là hình ảnh bên trong nhà ngoại khi tôi còn nhỏ.

Bài viết liên quan  K-드라마의 최초 설계자들 - Những kiến trúc sư đầu tiên của K-Drama

기억이 캄캄했던 이유를 알 것 같았다. 그 시절 외갓집의 방은 대체로 짙은 색이었다. 도배는 낡았고, 장판은 구들장에서 올라오는 불기운에 눌어 고동색으로 변해 있었으며, 방문에 발라 놓은 창호지는 질이 좋지 않아 두껍고 거칠었다. 그런 반면 리조트의 내부는 환했다. 도배가 깨끗했고 천장의 테두리 어디에 조명이 감춰져 있어 집 전체가 스스로 빛을 내고 있는 느낌이었다. 문틀이며 벽이며 천장을 지탱하고 있는 목재 구조물들은 비바람에 노출되지 않아서인지 새것 그대로인 듯했고, 조명을 금빛으로 바꾸어 방 전체에 고르고 부드럽게 뿌려주고 있었다. 나는 생각난 김에 이불을 젖히고 일어나 방문 앞으로 다가갔다. 그리고 팽팽하게 당겨 바른 창호지를 손가락으로 톡톡 튕겨 보았다. 문살 사이에서 맑고도 깊은 북소리가 울렸다.

Dường như tôi đã hiểu được lý do vì sao những ký ức của mình lại tối đen như vậy. Vì đó cũng là màu sắc bao phủ căn phòng của nhà ngoại khi ấy. Giấy dán tường đã cũ, giấy lót sàn cũng ngả sang màu nâu đỏ do bị đốt nóng bởi hơi lửa tỏa ra từ hệ thống đá sưởi. Giấy dán trên cửa phòng do chất lượng không tốt nên rất dày và sần sùi. Ngược lại, bên trong khu nghỉ dưỡng tôi đang ở lại rất sáng sủa. Tường được dán giấy sạch sẽ, đèn được lắp đặt âm đâu đó trong mép trần khiến tôi có cảm giác như ngôi nhà đang tự phát ra ánh sáng. Các kết cấu bằng gỗ chống đỡ cho căn nhà như là khung cửa, tường và trần có lẽ vì không gặp phải mưa gió nên đều còn nguyên vẹn, ánh đèn vàng tỏa đều, nhẹ nhàng khắp cả phòng. Nhân lúc suy nghĩ, tôi lật tấm chăn ra, đứng lên và đi về phía trước cửa phòng. Tôi kéo cửa ra một khoảng vừa phải, dùng ngón tay búng nhẹ lên giấy dán cửa. Từ vị trí ở giữa khung cửa lùa, âm thanh như tiếng trống phát ra trong trẻo nhưng cũng rất sâu lắng.

구름에 리조트는 안동 지역의 17~19세기 고택 7채를 완만한 산비탈을 따라 옮겨 지어 숙박 시설로 활용하고 있다. 투숙객을 위해 준비된 이불과 요는 광목천 안에 솜을 넣어 만들었다. 무명실로 짠 광목은 맨살에 닿는 까슬까슬한 느낌이 좋아 예전에 가장 보편적으로 사용되던 침구용 천이었다. Khu nghỉ dưỡng Gurume là tập hợp bảy ngôi nhà cổ có từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX ở khu vực Andong, sau được di dời và phục dựng dọc theo sườn núi thoai thoải và sử dụng làm khách sạn. Chăn và nệm chuẩn bị cho khách là loại được nhồi bông vào bên trong lớp vải cô-tông. Vải dệt từ sợi bông này được ưa chuộng bởi cảm giác thô ráp khi chạm vào da thịt, là loại vải phổ biến nhất được dùng làm ga giường trong quá khứ.
구름에 리조트는 안동 지역의 17~19세기 고택 7채를 완만한 산비탈을 따라 옮겨 지어 숙박 시설로 활용하고 있다. 투숙객을 위해 준비된 이불과 요는 광목천 안에 솜을 넣어 만들었다. 무명실로 짠 광목은 맨살에 닿는 까슬까슬한 느낌이 좋아 예전에 가장 보편적으로 사용되던 침구용 천이었다. Khu nghỉ dưỡng Gurume là tập hợp bảy ngôi nhà cổ có từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX ở khu vực Andong, sau được di dời và phục dựng dọc theo sườn núi thoai thoải và sử dụng làm khách sạn. Chăn và nệm chuẩn bị cho khách là loại được nhồi bông vào bên trong lớp vải cô-tông. Vải dệt từ sợi bông này được ưa chuộng bởi cảm giác thô ráp khi chạm vào da thịt, là loại vải phổ biến nhất được dùng làm ga giường trong quá khứ.
전통식 온돌방을 그대로 사용하는 객실과 달리 욕실은 투숙객의 편의를 위해 현대식으로 개조했다. 일반 호텔과 마찬가지로 욕조와 샤워 시설을 갖추고 목욕 용품을 제공한다. 서울의 집에서는 좀처럼 바닥에 몸을 댈 일이 없었다. 그러므로 나는 늘 발바닥만큼의 좁은 면적으로만 내 집과 몸을 맞대고 있었다. 그에 비해 한옥은 온몸으로 만나는 공간이었다. Khác với phòng khách sử dụng hệ thống sưởi ondol truyền thống, phòng tắm được cải tạo theo hướng hiện đại để đáp ứng tiện nghi cho khách. Bồn tắm, vòi sen được lắp đặt và các vật dụng tắm gội được cung cấp giống như những khách sạn thông thường. Trong ngôi nhà của mình tại Seoul, tôi rất ít khi nằm trên sàn nhà. Vì thế, diện tích tiếp xúc giữa cơ thể tôi và ngôi nhà chỉ bé bằng lòng bàn chân. So với đó, hanok là không gian mà tôi có thể chạm vào bằng toàn bộ thân thể.
전통식 온돌방을 그대로 사용하는 객실과 달리 욕실은 투숙객의 편의를 위해 현대식으로 개조했다. 일반 호텔과 마찬가지로 욕조와 샤워 시설을 갖추고 목욕 용품을 제공한다. 서울의 집에서는 좀처럼 바닥에 몸을 댈 일이 없었다. 그러므로 나는 늘 발바닥만큼의 좁은 면적으로만 내 집과 몸을 맞대고 있었다. 그에 비해 한옥은 온몸으로 만나는 공간이었다. Khác với phòng khách sử dụng hệ thống sưởi ondol truyền thống, phòng tắm được cải tạo theo hướng hiện đại để đáp ứng tiện nghi cho khách. Bồn tắm, vòi sen được lắp đặt và các vật dụng tắm gội được cung cấp giống như những khách sạn thông thường. Trong ngôi nhà của mình tại Seoul, tôi rất ít khi nằm trên sàn nhà. Vì thế, diện tích tiếp xúc giữa cơ thể tôi và ngôi nhà chỉ bé bằng lòng bàn chân. So với đó, hanok là không gian mà tôi có thể chạm vào bằng toàn bộ thân thể.
리조트 안에는 고택 사이사이로 산책길이 있다. 이 길들을 따라 걸으며 각기 다른 옛 전통 가옥들의 모습을 비교해 보면서 주변의 경치도 즐길 수 있다. Bên trong khu nghỉ dưỡng có những con đường đi dạo nằm giữa các ngôi nhà. Rảo bước dọc theo con đường ấy, chúng ta có thể vừa so sánh hình dáng đa dạng của những ngôi nhà truyền thống qua các thời kỳ, vừa thưởng thức phong cảnh xung quanh.
리조트 안에는 고택 사이사이로 산책길이 있다. 이 길들을 따라 걸으며 각기 다른 옛 전통 가옥들의 모습을 비교해 보면서 주변의 경치도 즐길 수 있다. Bên trong khu nghỉ dưỡng có những con đường đi dạo nằm giữa các ngôi nhà. Rảo bước dọc theo con đường ấy, chúng ta có thể vừa so sánh hình dáng đa dạng của những ngôi nhà truyền thống qua các thời kỳ, vừa thưởng thức phong cảnh xung quanh.

가족의 온기 – Hơi ấm của gia đình
이렇게나 다른 두 공간에 어떤 접점이 있어 좀처럼 떠오르지 않던 기억이 되살아났을까. 그것은 분명 이불이었다. 나를 힘껏 안아주는 이불의 느낌이 가족의 온기를 떠올리게 한 것이었다. 낡고 어두운 방에서도 행복하고 즐거웠다. 나는 할머니가 만든 강된장과 칼국수를 좋아했다. 식사가 끝나면 할아버지는 목침을 괴고 벽에 기대어 담배를 피웠다. 애가 있는 데서 담배를 피우느냐며 할머니가 잔소리를 하면 할아버지는 슬그머니 목침을 들고 대청으로 나갔다. 나는 심심하면 삼촌들이 모아 놓은 카세트테이프를 몽땅 꺼내 도미노 놀이를 했다. 삼촌들을 골려 주려 케이스와 내용물을 뒤섞어 놓기도 했는데 장난이 통했는지 어쨌는지는 잘 모르겠다. 외조부모님은 돌아가신 지 오래되었고 삼촌들이나 이모와는 일 년에 겨우 한두 번 안부를 주고받을 뿐인 지금을 생각하니 어릴 적 기억이 마치 전생의 일인 것만 같았다.

Giữa hai không gian rất khác nhau là thế, đâu là điểm chung đã làm sống dậy trong tôi những ký ức mà bản thân trước đây chưa bao giờ nghĩ đến? Chắc chắn là tấm chăn rồi. Chính cảm giác như tấm chăn ôm chặt cơ thể đã nhắc tôi nhớ về hơi ấm của gia đình. Dù sống trong căn phòng cũ kĩ và tăm tối, tôi đã cảm thấy rất hạnh phúc và vui vẻ. Tôi rất thích món gangdoenjangvà kalguksudo bà ngoại nấu. Sau bữa ăn, ông tôi thường kê chiếc gối gỗ dựa vào tường và hút thuốc. Nếu bà cằn nhằn về việc hút thuốc ở nơi có cháu nhỏ, ông sẽ âm thầm mang chiếc gối gỗ đó ra ngoài sảnh. Mỗi khi buồn chán, tôi lại mang hết đống băng cát-sét mà các cậu của tôi sưu tầm ra để chơi đô-mi-nô. Tôi thậm chí còn cho băng vào hộp lộn xộn để đùa các cậu, nhưng tôi cũng chẳng biết trò đùa đấy có tác dụng gì không. Ông bà ngoại đã mất cách đây khá lâu, giờ đây mỗi năm tôi cũng chỉ thăm hỏi cậu mợ một hai lần, nghĩ lại thấy ký ức của thời thơ ấu mà cứ như việc đã xảy ra từ kiếp trước.

안채 쪽에서 가족으로 보이는 숙박객들의 웃음소리가 안마당을 가로질러 건너왔다. 문득 생각난 것이 있어 서안을 당겨 와 그 위에 노트북을 놓고 몇 문장을 타이핑했다. 한옥은 가족이 구성되어 있을 때 그 진가를 보이는 것 같았다. 뭔가 적어 놓을 것이 많을 줄 알았는데 낯선 곳에서의 설렘과 흥분 때문인지 잘 정리되지 않았다. 나는 노트북을 그대로 둔 채 밖으로 나와 마루에 걸터앉았다. 가을 밤공기가 쌀쌀했지만 몸이 데워져 있던 터라 오히려 상쾌했다. 하늘에 촘촘히 박혀 있는 별들에서 별자리를 가려내 보는데 처마 끝에 매달린 길쭉한 잎사귀 같은 게 껴들었다. 아무래도 모양이 이상해 일어서서 살펴봤더니 잎사귀가 아니라 사마귀였다. 녀석은 거꾸로 매달린 채 처마 밖의 먼 하늘을 향해 머리를 쳐들고 꼼짝도 하지 않았다. 언제부터 저러고 있었을까. 무엇을 보고 있는 걸까. 나는 몸이 으슬으슬해질 때까지 녀석의 마음을 상상해 보다 방으로 들어갔다. 이불을 덮고 누워서도 오랫동안 혼자 하늘을 바라보던 사마귀를 생각하던 중에 나도 모르게 잠이 들었다.

Tiếng cười của những vị khách trọ trông như một gia đình vọng ra từ anchae, vượt qua cả sân trong vọng đến chỗ tôi. Vài suy nghĩ bất chợt nảy ra trong đầu, tôi vội kéo cái bàn nhỏ lại gần, đặt chiếc laptop lên và gõ vài câu. Dường như giá trị của hanok bộc lộ rõ hơn khi có hình ảnh của gia đình. Ngỡ rằng có rất nhiều thứ để viết ra, nhưng cảm giác hồi hộp, phấn khích tại một không gian xa lạ khiến tôi không tài nào sắp xếp được các ý tưởng. Để chiếc laptop tại đó, tôi đi ra ngồi trên maru. Trái với cái se lạnh của đêm thu, cảm giác cơ thể được sưởi ấm thật là sảng khoái. Trong lúc thử tìm những chòm sao trong số rất nhiều ngôi sao chi chít trên bầu trời, một cái gì đó có hình thù như chiếc lá thon dài treo ở cuối mái hiên thu hút ánh nhìn của tôi. Tò mò với hình dáng kỳ lạ ấy, tôi đứng dậy xem và nhận ra đó không phải chiếc lá mà là một chú bọ ngựa. Trong trạng thái treo ngược, đầu của chú ta ngẩng lên, hướng về phía bầu trời xa xăm bên ngoài mái hiên và hoàn toàn không động đậy. Không biết nó đã như thế tự bao giờ. Tôi đứng đó và tưởng tượng về tâm trạng của chú bọ ngựa ấy, đến khi cơ thể lạnh nổi hết da gà thì mới đi vào trong phòng. Đắp chăn và nằm xuống, trong đầu tôi vẫn nghĩ đến hình ảnh con bọ ngựa chăm chú nhìn bầu trời một mình suốt một hồi lâu, để rồi cơ thể chìm vào giấc ngủ từ lúc nào không biết.

김덕희(Kim Deok-hee 金㯖熙)소설가
Kim Deok-hee, Tiểu thuyết gia
안홍범(Ahn Hong-beom 安洪範) 포토그래퍼
Ahn Hong-beom, Nhiếp ảnh gia

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here